DỊCH THƠ NABOKOV

                                     DỊCH  THƠ  NABOKOV

                                                                                             CHÂN PHƯƠNG

 

 

   Như James Joyce và Samuel Beckett, Nabokov sáng tác khá nhiều thơ trước khi bắt đầu viết văn. Giấc mơ lớn của ông là trở thành một nhà thơ của nước Nga và ông đă chuyên tâm nghiên cứu về thi pháp học tiếng Nga sau khi bắt đầu có thơ đăng trên báo nhà trường lúc 15 tuổi. V́ Cách Mạng tháng Mười, gia đ́nh ông phải ly hương và Nabokov đă vào đại học Trinity College, Cambridge nơi ông học ngữ văn Nga và Pháp. Remembrance  là một bài thơ đầu tay ông viết thẳng bằng Anh văn đăng trên tạp chí English Review (Nov.1920) ở Luân Đôn . Lúc đó Nabokov vừa tṛn 21 tuổi, c̣n chịu nhiều ảnh hưởng của thơ Tượng Trưng và thi phái Acmeism Nga. Tốt nghiệp ở Anh, ông sang Bá Linh  gia nhập cộng đồng nghệ sĩ Nga lưu vong và bắt đầu viết truyện ngắn  và tiểu thuyết bằng tiếng Nga dưới bút hiệu SYRIN (Chim Lửa), vừa dịch thơ Nga sang Anh ngữ và tiểu thuyết Pháp  Colas Breugnon sang tiếng Nga . Ông thông thạo từ bé ba ngôn ngữ vừa kể, có lúc sáng tác bằng tiếng Pháp, như truyện ngắn Mademoiselle O., trong những năm bỏ nước Đức của Hitler qua Paris sống. Tháng 5-1940, gia đ́nh ông rời nước Pháp sang Mỹ , sau đó ông cho ra mắt tiểu thuyết đầu tay bằng Anh ngữ, The Real Life of Sebastian Knight, do nhà New Directions ở New York xuất bản. Hơn chục năm cuối đời, Nabokov sống ở Montreux, Thụy Sĩ, nơi ông mất vào tháng 7 năm 1977.

 

    Có một chi tiết lư thú đối với riêng tôi, người giới thiệu và dịch mấy bài thơ dưới đây. Hơn hai mươi năm qua sinh sống ở Cambridge gần Harvard, tôi vẫn thường lui tới để đọc sách báo các thư viện của đại học này. Trong số  danh nhân văn học đă từng cộng tác hay giảng huấn ở đây như Milosz, Borges, Paz, Heaney, Pamuk… vẫn thấp thoáng bóng dáng của Vladimir Nabokov; và trong Bảo Tàng Sinh Vật Học của Harvard, đôi lần tôi được ngắm mấy cánh bướm lạ mà Nabokov từng góp công sưu tập.



REMEMBRANCE- HOÀI NIỆM


Like silent ships we two in darkness met,
And when some day the poet's careless fame
Shall breathe to you a half-forgotten name --
Soul of my song, I want you to regret.
For you had Love. Out of my life you tore
One shining page. I want, if we must part,
Remembrance pale to quiver in your heart
Like moonlit foam upon a windy shore.

 

Như tàu thuyền lặng câm đôi ta gặp nhau giữa tối tăm

Rồi một ngày khi danh tiếng bất cần của thi nhân

Khẽ nhắc tên người hầu như em đă lăng quên

Tôi muốn em ngậm ngùi, linh hồn bài hát của tôi ơi!

Bởi em đă có T́nh Yêu. Em xé khỏi đời tôi

Một trang ngời sáng. Nếu ta phải chia phôi,

Tôi muốn tim em run rẩy v́ hoài niệm nhạt phai

Như bọt bể loáng trăng  trên băi đêm lồng lộng gió.

 

 

THE RUSSIAN SONG * -  CA KHÚC NGA

* in lần đầu trên  tạp chí  Carrousel ở Berlin năm 1923.

 

I dream of simple tender things:

a moonlit road and tinkling bells.

Ah, drearly the coachboy sings,

but sadness into beauty swells;

 

swells, and is lost in moonlight dim…

the singer sighs, and then the moon

full gently passes back to him

the quivering, unfinished tune.

 

In distant lands, on hill and plain,

thus do I dream, when nights are long, --

and memory gives back again

the whisper of that long-lost song.

 

Tôi mơ những điều đơn sơ mềm dịu

lối đi sáng trăng và các quả chuông ngân

Ô ḱa, gă đánh xe hát điệu thê lương.

nhưng sầu muộn nở căng thành cái đẹp;

 

trương phồng, rồi dưới trăng mờ biến mất…

tên ca sĩ thở dài, đến khi trăng rằm

trao lại nhẹ nhàng cho hắn

thoáng âm ba run rẩy dở dang.

 

Đồi núi ruộng đồng, những chốn xa xăm,

tôi vẫn nằm mơ, khi đêm dài bất tận,

chờ hồi ức mang về trả lại

tiếng th́ thầm của ca khúc lâu nay biệt tăm.

 

 

NO MATTER HOW* – CHO DÙ…

*Nabokov dịch từ nguyên tác Nga văn.

 

 

No matter how the Soviet tinsel glitters

Upon the canvas of a battle piece;

No matter how the soul dissolves in pity,

I will not bend, I will not cease

 

Loathing the filth, brutality, and boredom

Of silent servitude. No, no, I shout,

My spirit is still quick, still exile-hungry,

I’m still a poet, count me out!

 

Cho dù Xô viết lấp lánh màu ḷe loẹt

Trên tấm vải bạt của  chiếc chiến thuyền ;

Cho dù linh hồn thương xót có ră tan,

Tôi không uốn lưng, trọn đời tôi ghê tởm

cảnh bẩn thỉu, sự hung tàn,

kiếp tôi đ̣i câm nín kéo dài nhàm chán.

Không, tôi hét, không – tinh thần tôi c̣n linh động,

c̣n khát thèm cuộc sống lưu vong.

 

Tôi vẫn là thi sĩ - kẻ đứng ngoài và nói KHÔNG!

 

 

 

                                                                                                      CHÂN PHƯƠNG giới thiệu và phóng dịch .

                                                                                                           Cambridge, 21 tháng 7, 2013