T́nh cờ tôi đọc TA lần đầu trên FB và tự nhiên có t́nh cảm văn chương với mấy đoạn tản văn của anh

ĐỌC LY CÀ PHÊ THÁNG MƯỜI HAI

 

T́nh cờ tôi đọc Tuấn Anh lần đầu trên FB và tự nhiên có t́nh cảm văn chương với mấy đoạn tản văn của anh. Gần đây anh tin cậy gửi các trang viết cho tôi góp cảm tưởng. Bản thảo không dày lắm - tất cả gồm 27 đoản tác, bài dài nhất không hơn bốn trang (nay được in thành cuốn sách LY CÀPHÊ THÁNG MƯỜI HAI do Hội Nhà Văn xuất bản). Cảm tưởng chung khi đọc bản thảo là sự thể nghiệm một phong cách viết song song với một đoạn hành tŕnh của tác giả - con người của hôm nay vừa kiếm sống vừa giải khuây sau công việc với dăm lạc thú thường ngày như uống trà, nghe nhạc, ra quán cà phê một ḿnh hay ngồi với bạn…Nếu chỉ là những đoạn bút kư b́nh dị về các sinh hoạt phần nhiều lặp lại theo thói quen th́ người đọc sẽ xếp các trang viết lại như xếp một tờ nhật báo. Nhưng đọng lại từ các gịng chữ mô tả và tự sự ấy là những giờ khắc chiêm nghiệm hay một thoáng trầm tư . Đó là lúc ư thức làm bước nhảy lùi hoặc chao cánh lượn quanh các hiện tượng và diễn biến của đời sống – đó cũng là lúc ng̣i bút tập đồng hành với văn chương và tư tưởng.

 

   V́ nghề nghiệp, TA di chuyển giữa hai không gian khác biệt : đất liền và sông biển. Từ   đoản văn mở đầu Chuyện Đi Tàu đến bài viết cuối Nh́n về Đất liền tác giả tấu đi tấu lại khúc nhạc chủ đề hai bè “ĐẾN VÀ ĐI” mà sân khấu chính là khoảng nội tâm lênh đênh giữa đất và biển.

 

“Đặt ba lô lên tàu, ngồi ngắm biển cḥng chành mà  nao ḷng…Biển xanh, nhưng sóng có yên lành, khi những suy nghĩ của chúng ta cứ đầy theo năm tháng?... Đến và  đi chỉ  là  bước dạo đầu chấm phá trong những cuộc mưu sinh” (6-7).

 

“Càng nghĩ,càng thấy ḷng trống rỗng…Đất liền…là những cánh chim, đang lưu giữ những mảng kư ức khổng lồ của cuộc đời, có nguy cơ vuột bay mất...Ngồi trên tàu, chút ưu tư cứ lắc dần trong trà nhỏ mà không uống nổi, một khoảng không vời vợi và lạnh lung.” (100-101).

 

   Trùng khơi vô định như các kiếp phận bị ném vào tương lai bất trắc đầy những biến động ngoài tầm hiểu biết. Kinh nghiệm này được tác giả tóm lược trong vài câu rải rác : “Kết thúc và bắt đầu không phải lúc nào cũng nằm trong dự định và sự toan tính. (38); hay là “Ta…như con lắc, đu trên những sợi dây chùng ch́nh số phận, chỉ sợ những sợi dây mỏng manh kia một ngày sẽ đứt…(42). Nhưng đất liền cũng không khá hơn nếu chẳng có ǵ ngoài các thao tác vô vị, nhàm chán từng ngày.  “Cuộc sống cứ lặp lại những chu tŕnh vô thức mà chẳng ai t́m hiểu ư thức (76). “Mỗi ngày vẫn những con người cũ, giọng nói cũ và tính cách cũ. …Thử hỏi, thế giới có ǵ sáng tạo không, khi mỗi ư thức lập tŕnh vẫn chẳng thay đổi.” (13) Nỗi ám ảnh ấy khiến tác giả vỉết ra những chữ quẩn quanh kinh nghiệm và sự thật b́nh thường, “Đi hết một con đường, mỗi ngày ta lại quay trở về vị trí xuất phát.”(13)

 

 

   Cũng như phần đông thị dân các nước trên đà hội nhập lối sống toàn cầu hóa, người Việt đang bị phân hóa tâm lư mạnh. Với những ai đă sinh sống ngoài quê nhà (tác giả lúc thanh xuân từng sống nhiều năm bên Nga) hai cực quá khứ - hiện tại  c̣n giằng co với nhau như cánh cung hiện sinh thường trực, ngầm chứa một lực đẩy bất ngờ đe dọa thế cân bằng vốn đă chông chênh.  Qua từng trang viết, tác giả thủ vai nhân vật khá tiêu biểu với những ai c̣n vương vấn “con đường cũ…, cây gạo…, quán nhỏ ngă ba…, lối ṃn dĩ văng…” (82) đồng thời phải truy t́m ư nghĩa hay hạnh phúc bị giao động và đe dọa v́ nhịp độ cuộc đời hôm nay, phải “ t́m một nhánh rẽ để ổn định… giữa những cấu trúc chằng chịt của đô thị mới” (84).

  

   Đặc biệt hơn ở ng̣i bút Tuấn Anh - vốn là một thi sĩ đă cho ra đời hai tập thơ - cô đơn với khoảng lặng là nhu cầu thiết yếu của óc tim, là “thời gian cho  độ chín cảm xúc và lư trí” “Khoảng lặng ấy như một hồ nước đục,… cần phải để cho lắng lại…”chờ “lộ ra nhiều khoảng sáng”(15). Hay nói cách khác “ tôi lúc này, đang cần yên tĩnh, không muốn chạm vào thế giới bên ngoài.” (23) để miên man suy tưởng và soi chiếu chân dung kín đáo của ḿnh. Tuy vậy giữa mớ thao thức và khao khát không tên, kư ức của những chặng giang hồ lại hiện về: cành phượng cũ, tuyết nước Nga, một mái tóc, một đôi mắt…như màu sắc cầu vồng lấp lánh.. Cho dù tác giả có tâm sự ở cuối sách một ư nguyện rất đạo cốt :“tập viết về …khoảng không và tập nghĩ về… khoảng không.”(101), cái nghiệp thơ văn - đồng thời cũng là lạc thú – là mối duyên t́nh khó dứt.

 

   Bằng chứng là tác giả đă sắp xếp và viết lại bản thảo, chăm chút khuôn nắn những câu chữ chưa hài ḷng trước khi cho xuất bản. Mặc dù một tập hợp tản văn hay bút kư chưa phải là một nghệ phẩm thuần nhất mà chỉ là mớ chấm phá cho bức tranh dang dở của một diện mạo văn học c̣n trong tiến tŕnh thử nghiệm. Nhưng tham quan công tŕnh chữ nghĩa c̣n ngổn ngang vật liệu này, người đọc quan tâm sẽ nhận ra vài nét chân dung đáng ghi nhớ của ng̣i bút mang tên TUẤN ANH. 

 

CHÂN  PHƯƠNG

Hingham Bay, 9-24-2014

 

 

 

                                                  NH̀N VỀ ĐẤT LIỀN

 

  

   Tự dưng lại thích uống rượu, t́m măi chẳng có lấy một giọt, đành lang thang quanh con tàu, rồi nh́n về... đất liền. Chẳng có ai trong tầm mắt ngoài phía xa kia để chút bầu tâm sự.  Chiếếc điện thoại quá quen, cũng chẳng nói lên được ǵ trong lúc này. Những kí tự hiện lập lờ, nổi lên lềnh phềnh như những xác chết, chỉ biết vê vê ngồi đợi. Con tàu dài đuỗn trong mùa thu Bắc bộ se se đang chạy về với vài mớ ngôn ngữ ở facebook, làm ḿnh chạnh ḷng. Ai đo nông sâu trong hoang hoải gió mùa, chút heo may bâng quơ rộn vào...ảo giác. Ḿnh không thích giá lạnh, nhưng ở cực Nam, lúc này đây, lại thấy khát thèm... Có cái rét nào để lòng co ro...? Chỉ cần 5000 đồng, ḿnh cũng có thể thư thả nghỉ ngơi ở một quán cafe miệt vườn xứ Nam bộ này.

 

   Thong thả nh́n ra xa, ḿnh cũng như bao người dân, mặc ḷng cho thời gian trôi chảy, nhấm nháp một vị đắng quen quen, vẫn gọi về trong...tiềm thức. Nhấm nháp và nghĩ suy cũng là một guồng quay của cuộc đời, mà lúc này, ḿnh c̣n biết thanh thản. Nhưng từ đây vào bờ vẫn c̣n ba tiếng nữa, tàumới cập được đất liền. Nh́n ánh trăng lui thủi đi về một góc trời cô độc. Chẳng có ǵ trang trí cho một đêm tĩnh lặng, ngoài những sóng nước miên man.

  

   Ở trên tàu tự nhiên lại thèm nghe tiếng tu hú, mặc dù trời đă sang quá thu. Lấy đâu ra lũ chúng bạn để sum vầy, tuổi ấu thơ cứ tăm tắp trở về…? Sau cabin, một khoảng sân nho nhỏ, ánh trăng thu lảng bảng... Đêm ở biển, lặng lẽ, không ồn ào, khi tàu buông neo. Nh́n xuống mặt nước, vẫn những con sóng ́ ầm không ngơi nghỉ, một sự tuần hoàn lớp lớp, mà cũng chẳng biết ... về đâu...Ngồi một ḿnh, bên tách trà ... mà thấy lạnh.Tầm này ở quê, những tiếng trống múa lân rộn ràng, những đứa trẻ háo hức với các mặt nạ, t́m chốnquen...thách thức. Những tṛ đuổi nhau không dài măi trong cuộc đời, nhưng đôi khi vẫn rộ lên thi thoảng, sau ánh trăng lờ mờ, buông tỏa...

 

   T́m về chỗ ...quen, để thấy ḿnh vẫn...lạ

   thèm một tiếng chim lạc loài để đêm về ḿnh có thể lắng nghe

   thèm ai đó à ơi, dẫu rằng cũng chẳng phải gọi cho ḿnh

   thèm một chiếc lá khô bay lờ vờ trong gió

   thèm bóng cây rủ xuống, để ḿnh cuộn tay vào

   gữi lấy ḷng

   vân vê…

 

   Càng nghĩ, càng thấy ḷng ḿnh trống rỗng như những hoang mạc khôn cùng. Đất liền ơi,đất liền! Đất liền đối với ḿnh giờ không c̣n là đất liền, mà là những cánh chim, đang lưu giữ những mảng kí ức khổng lồ của đời ḿnh, có nguy cơ sẽ vuột bay mất…Đất liền vẫn trong tầm nh́n thấy, nhưng liệu có c̣n cảm thấy? Ngồi trên tàu, chút ưu tư cứ lắc dần trong tách trà nhỏ mà không uống nổi, một khoảng không vời vợi và lạnh lùng. Không định vị, không báo hiệu và đèn báo. Tiến thẳng hay quay ngang, mọi việc đều theo cảm tính mà không theo lư tính. Khoảng không đó, liệu sẽ được nhân lên như thế nào,  mấy ai được hiểu, mà họ vẫn nghĩ.

 

   Trên trời, những đám mây đục, mờ vẫn chạy ngang dọc nối tiếp mà cũng chẳng biết về đâu. Lấy cây bút ra ngọ nguậy, tập viết về… khoảng không và tập nghĩ về… khoảng không.

 

TUẤN ANH