BÊN LỀ HỘI NGHỊ LÁ VÀNG

 

WELCOME  IRENE*

 

 

băi sủi ngầu bọt say

gió cấp bảy cấp tám

 

biển lắc lư như gái hứng t́nh

tàu thuyền nhảy sóng ngất ngư

 

mây găy cánh rụng đầy trời

hàng bạch dương động kinh co giật

 

thi nhân chưa kịp mở miệng

 

cuồng phong giựt phăng mọi cảm nghĩ

chữ cái chữ con vụt bay tứ tán

 

hoang đảo xa bất chợt hú dài

 

                                           A A A I I   R Ê Ê Ê  Ê Ê NNNNNNNN --------

 

 

 

       Chú thích

 

•        Cuối tháng 8– 2011, băo Irene tàn phá East Coast  từ North Carolina lên tận Vermont.

•        IRENE ph át âm (gi ễu nh ại) nghe như AI  RÊN .

 

 

CHÂN  PHƯƠNG

2p.m. Sunday 8-28-2011

Hog Island, Massachusetts

 

 

ẢO  THUẬT

 

 

cúc rực vàng

đỏ thắm từng cánh geranium

lilac trái mùa trổ mấy chùm tím nhạt

 

quanh lăng tẩm mùa hè c̣n dang dở

hàng ngh́n vịt trời đứng canh bất động

 

bạch hồng lả tả trên sân cuội

chơi vơi ngọn gió tháng mười

 

xào xạc tháng ngày qua

 

         xào xạc những bàn tay hoài niệm

 

… và chỉ có vậy thôi

 

như ảo thuật

tất cả hóa thành

 

         cuốn Nam Hoa Kinh lơ lửng góc trời

 

mi chưa tin à ?

cứ lật thử một trang coi

 

rặng bạch dương tái xám kia

sẽ qú mọp xuống trước khi tan biến

 

 rồi

                 bất tận tuyết rơi

 

 

Hull, October 2011

 

***

 

 

SALVATORE  QUASIMODO

 

    Nhà thơ nước Ư Salvatore Quasimodo (Nobel 1959) là một trong những tiếng thơ trữ t́nh hàng đầu

thế giới trong thế kỷ 20. Ông từng là đầu đàn của thi phái Mật Ngôn (Hermetic) bắt nguồn từ

thơ Tưọng Trưng Pháp, chủ trương tinh lọc ngôn ngữ (Mallarmé) và dùng h́nh tượng thể hiện thẳng cảm xúc tránh chữ nghĩa hoa ḥe rườm rà. Trong thế chiến thứ 2, ông bị Mussolini cầm tù v́ các hoạt động

chống phát-xít. Kinh nghiệm chính trị đó là bước ngơặc trong sự nghiệp văn học của ông, thơ Quasimodo

trở thành tiếng nói chứng nhân cho những năm tháng tăm tối đầy bạo lực và tuyệt vọng của nước Ư. Khi

ông ra đi vào năm 1968, nền thơ Ư và Âu châu mất một nhà thơ lớn của lương tâm, một tâm hồn luôn thao thức trước thân phận con người trong  một thời đại nhiều bi kịch.

 

CHÂN  PHƯƠNG  dịch từ bản Anh văn của Jack Bevan, QUASIMODO, Selected Poems,Penguin Books.,1965.  

 

 

 

 

   VÀ  EM  MẶC  ÁO  TRẮNG

 

Đầu cúi xuống  em nh́n tôi

trong chiếc áo trắng,

và từ sợi vải buột lơi bên vai trái

một trái vú nở bung.

 

Tôi không kham nổi

thứ ánh sáng lung linh

phủ lên đôi tay em trần trụi.

 

Tôi lại thấy em. Những chữ em nói

nhanh, khô gọn,

nâng tinh thần tôi lên

dưới gánh nặng cuộc đời

chỉ là tṛ xiếc đối với tôi.

 

Thăm thẳm con đường

gió luồn theo

những đêm tháng Ba kia,

và đánh thức chúng ta

y như lần đầu

xa lạ.

 

 

   TÔI  LẠI  NGHE  TIẾNG  BIỂN

 

 

Đă nhiều đêm rồi tôi nghe lại âm thanh của biển

dâng lên hạ xuống khẽ khàng trên những bờ cát phẳng

Từ thời gian vọng lên một lời nói

giấu kín trong tim óc; cùng tiếng hải âu

kêu không ngừng nghỉ, có thể là

lũ chim cắt bị tháng Tư

rù quyến quay lại ruộng đồng.

Trước kia có một thời

em từng gần tôi với lời nói ấy;

ước ǵ giờ đây vọng được đến em

chút hoài niệm về tôi

tựa biển kia th́ thầm trong tăm tối.