DaiHocNhaNuocBTLieu

 

 

Về vai tṛ của Nhà nước

trong giáo dục đại học [1]

Bùi Trọng Liễu

 

Lúc này, vấn đề cải tổ giáo dục đại học ở Việt Nam đang được đặt ra. Các trường đại học công lập đang được dự tính sắp xếp lại. Chính quyền Việt Nam cũng đă ra qui chế cho phép mở đại học tư thục. Tôi nghĩ rằng có lẽ là lúc đáng nói vài lời về vai tṛ của Nhà nước trong giáo dục đại học. [...].

Cách đây không lâu, giáo dục đào tạo c̣n hoàn toàn là công lập. Trải qua mấy chục  năm, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, vai tṛ của Nhà nước đă bị sử dụng một cách quá đáng, gây ra t́nh trạng rất «ngột ngạt», nhất là cách quan niệm, quản lư bao cấp chi li phiền hà đă không mang lại kết quả mong đợi.[...]. Có thể là sự «ngột ngạt» đó làm cho ngày nay, khi được chút cởi mở, một số người lại có khuynh hướng ngả quá đáng về phía ngược lại: cho rằng chỉ những ǵ mà Nhà nước đừng dính đến vào th́ mới có kết quả, và do đó, «mê» rằng trường đại học tư có thể thay thế được cho đại học công. Cũng không loại trừ khả năng, ở một vài người, có một tinh thần «từ nhiệm nhà nước», theo nghĩa nếu bộ máy tiếp tục lề mề và t́nh h́nh tiếp tục khó khăn, chi bằng thả nổi, đẩy gánh trách nhiệm cho tư nhân.

Tôi nghĩ khác: Theo tôi, giáo dục đào tạo là vấn đề mà cả xă hội quan tâm, trong đó có ư thức của quần chúng, có lợi ích của tập thể, có vai tṛ của gia đ́nh, có nguyện vọng của cá nhân,... Do đó, sự tham gia của mọi thành phần của xă hội vào giáo dục đào tạo là sự cần thiết và hợp lư. Cũng v́ vậy mà tôi đă và tiếp tục bảo vệ ư kiến cho sự tồn tại một hệ dân lập tư lập (bên cạnh hệ quốc lập) trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam.  Nhưng vai tṛ của Nhà nước phải là chủ chốt, với điều kiện là vai tṛ đó được quan niệm một cách hợp lư và rành rọt trong khung cảnh của sự tồn tại đồng thời của hệ quốc lập và một hệ dân lập tư lập bổ sung cho nhau. Có thể nêu 5 lư do sau đây về «vai tṛ chủ chốt» của Nhà nước:

1/  Giáo dục là một trong những công cụ bảo đảm cho sự b́nh đẳng và sự công bằng cho mọi công dân trong một xă hội. Trong một xă hội lành mạnh b́nh thường, ai có thể bảo đảm quyền tự do học hỏi cho mọi người, nếu không phải là Nhà nước? (tôi nói Nhà nước theo nghĩa chung, chứ không nói thể chế). Nhất là sự tự do học hỏi c̣n kéo theo sự b́nh đẳng trong việc chọn nghề, việc tiến thân, vv... của từng cá nhân trong xă hội.

 

2/ Trên mặt vật chất, giáo dục đào tạo đ̣i hỏi những đầu tư lớn và dài hạn, mà kết quả gặt hái được phải tính hằng chục năm, cho nên chỉ Nhà nước mới có thể đảm nhận, dù cho có sự tham gia hỗ trợ của các thành phần khác của xă hội: nó cũng như vấn đề xây dựng hạ tầng cơ sở (cầu, đường, cảng,...), đầu tư th́ lớn, lâu dài mới thu được lợi nhuận.

 

3/ Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất (không phải như một nước liên bang). Cho nên dù sự tham gia của mọi thành phần xă hội, của địa phương, là cần thiết, vai tṛ chủ chốt của Nhà nước trong việc dự báo kế hoạch, điều tiết, «cầm trịch», kiểm tra, hiệu chỉnh vv... là một vế chính của sự thống nhất nói trên. (Sự độc quyền của Nhà nước về bằng cấp có ư nghĩa trong khung cảnh đó, chứ không có nghĩa trong một mục đích cấm cản hay loại trừ). Cũng có thể nói rằng giáo dục đào tạo, với tŕnh độ tương đương ở mọi địa bàn, là một trong những chất keo gắn liền mọi vùng; nếu không, đất nước có thể trở thành một thứ «ghép mảnh» (mosaique), với những hậu quả có thể tai hại cho việc chung sống hoà b́nh trong một nước.

 

4/ Về giáo dục đào tạo, ḷ nung đúc trí tuệ của dân tộc, chỉ có Nhà nước mới đảm nhiệm được sự liên tục và thừa kế, điều mà cá nhân hay một tập thể, dù đầy thiện chí cũng không thể gánh vác được.

 

5/  Giáo dục đào tạo là một trong những vế chính của nền độc lập tự chủ. Cho nên đó là một trong những sứ mạng của Nhà nước: bảo đảm được hướng đi lên, bảo đảm chất lượng cũng như số lượng người có tŕnh độ hiểu biết, có nghiệp vụ cao, bảo đảm được mục tiêu «kiến thức» của việc học, v. v... [2]

 

Cũng cần nói thêm là, trước đây, v́ nền kinh tế Việt Nam là kinh tế kế hoạch, cho nên cũng có thể viện một thứ «lư do lư thuyết» nào đó để tổ chức giáo dục đại học theo kiểu các đại học đào tạo nghề nghiệp là chính (kiểu đại học sư phạm, đại học ngoại ngữ, đại học xây dựng,vv...). Kiểu tổ chức đó không mang lại kết quả mong đợi. Ngày nay, Việt Nam đă đi vào kinh tế thị trường, không thể duy tŕ sự lỗi thời của h́nh thức «tổ chức đại học đi vào chuyên ngành quá sớm, và h́nh thức tuyển học sinh (từ trung học vào đại học ở tuổi 17,18) để sắp xếp họ đi vào chuyên môn nghề nghiệp quá non» đó nữa, mà cần quan niệm lại sứ mạng của nền đại học (nó bao gồm việc truyền bá sự hiểu biết, kể cả những hiểu biết chưa áp dụng cho một nghề, thông tin khoa học và kỹ thuật, mở rộng văn hoá, nâng cao trí tuệ và tính độc lập suy nghĩ, hoà nhập vào sự tiến triển chung của thế giới,... chứ không chỉ chuyên lo việc đào tạo nghề nghiệp, dù là nghề nghiệp cao cấp); có như vậy th́ mới góp phần làm cho người Việt Nam đủ sức tự tạo nên sự tiến bộ cho xă hội ḿnh.

 

Và để tránh sự hiểu lầm có thể xảy ra khi nói tới vai tṛ «chủ chốt» của Nhà nước, tôi xin mượn câu chuyện cổ Trung Hoa (đại khái như sau) để minh hoạ:

Hán Văn đế (thế kỉ 2 trước Tây lịch) lên ngôi được ít lâu, một hôm hỏi hữu thừa tướng Chu Bột:

- Một năm xét xử ngục h́nh bao nhiêu người?

Bột tạ lỗi, không trả lời được. Văn đế lại hỏi:

- Một năm tiền và thóc xuất nhập bao nhiêu?

Bột xấu hổ, lại tạ lỗi không trả lời được. Văn đế bèn hỏi tả thừa tướng Trần B́nh, cũng hai câu hỏi đó.

Trần B́nh trả lời:

- Đă có người lo việc ấy. Nếu hỏi về xử ngục h́nh, th́ hỏi quan đ́nh uư; nếu hỏi về tiền và thóc, th́ hỏi quan trị túc nội sử.

     Văn đế lại hỏi:

- Nếu việc ǵ cũng có người lo rồi, th́ ông lo việc ǵ?

B́nh trả lời:

- Chức vụ của thừa tướng là giúp vua chỉnh lư âm dương, làm cho bốn mùa thuận, để vạn vật đều sống thoả thích, vỗ về thân ái nhân dân, và làm cho các quan ai cũng đảm nhiệm tốt chức vụ của ḿnh.

     Văn đế khen là phải [3].

Tất nhiên, câu trả lời của Trần B́nh có phần quá đáng, nhưng rất hay: nó tả được một cách điển h́nh thế nào là vai tṛ chủ chốt, đâu có phải là vai tṛ «chi li», «kèn kẹt» ...

 



[1] Bài đăng trong Diễn Đàn số 26, tháng 1/1994, Tia Sáng 12/1998 trích đăng một đoạn

[2] Tôi đă có dịp phát biểu ư kiến về giáo dục đại học qua một số bài báo, như:

«Góp ư về việc học», trong Tổ Quốc tháng 11/1987, Nhân Dân  27/12/1987, Tuổi Trẻ 29/12/1987.

«Vài suy nghĩ về công học và tư học», trong Tuần Tin Tức 10/4/1993, Quê Hương tháng 7/1993. 

«Kiểm lại một số ư kiến góp về việc học», trong Nhân Dân chủ nhật 24/10/1993, và Tuổi Trẻ Chủ Nhật 11/1993 trích đăng phần IV trên 5 phần.

«Vài ư kiến về đại học», trong Quê Hương số Xuân 1994.

 Nhân đây, tôi cũng xin được nói rơ «vị trí» của tôi khi phát biểu ư kiến. Đáp câu hỏi của một nhà báo trong nước (ngụ ư tới những điều trần thế kỷ 19), tôi có trả lời:

«Trong lịch sử Việt Nam, có một số nhân vật trí thức được ghi tên tuổi làm gương cho hậu thế: Chu Văn An giữ tiết tháo, không màng danh lợi đương thời; Trạng Tŕnh Nguyễn B́nh Khiêm thấu hiểu việc đời nên vua chúa đương thời vấn kế; La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp có học hạnh nên Quang Trung mấy lần mời giúp; Nguyễn Trường Tộ thức thời đă thiết tha điều trần để cho xă hội trong đó ông đang sống được đổi mới và phồn thịnh. Nhưng những gương này là để cho những người ở trong nước noi theo. C̣n những người gốc Việt Nam sống ở nước ngoài như chúng tôi, nếu có t́m danh lợi th́ cũng chỉ ở địa bàn nước định cư; nếu có chút chuyên môn mà được sự « cầu hiền » từ Việt Nam th́ tiếng thơm cũng thuộc về người trong nước biết khéo xử; nếu có nhiệt t́nh góp ư th́ chỉ v́ thiết tha mong mỏi ở quê hương cũ chóng có được một cuộc sống vui tươi xứng đáng. Nói như vậy để nhấn mạnh tính chất vô tư và t́nh cảm của sự góp ư, nghĩa là vừa thanh thản vừa thiết tha».

[3] Tôi không ngại nêu câu chuyện Tàu này, là v́ Việt Nam và Trung Quốc xưa là nước đồng văn; vả lại, ai đọc sử Việt Nam hẳn c̣n nhớ việc Triệu Vũ đế (Triệu Đà) tiếp sứ giả của Hán Văn đế là Lục Giả... Trở lại vài chi tiết vụn vặt trong câu chuyện kể trong bài: Sau khi Hán Cao tổ Lưu Bang chết, Lữ hậu chuyên quyền, triều thần rất sợ. Khi Lữ hậu chết, con cháu họ Lữ định cướp ngôi nhà Hán. Chu Bột là tướng có công cầm quân dẹp loạn; Trần B́nh là mưu sĩ, rất khôn khéo, nên mới nhường chức thứ nhất cho Chu Bột. Hán Văn đế lên ngôi, muốn tỏ ra ḿnh chú ư đến việc nước, nên mới hỏi 2 câu kể trên. Sau vụ đó, Chu Bột biết ḿnh không bằng Trần B́nh, nên lui về, để Trần B́nh một ḿnh lo công việc thừa tướng.