Thiên nga đen

 

Cách mạng trong khoa học

SGTT.VN - Trái với quan niệm thông thường về một sự phát triển của khoa học theo đường thẳng, có tính tích luỹ dần dần và sau cùng hội tụ thành một thể thống nhất, Thomas Kuhn nh́n lịch sử khoa học như là một chuỗi những cuộc cách mạng có tính nhảy vọt.

Minh hoạ: Hồng Nguyên

 

Mô h́nh hai pha

Cái mới, đến một lúc nào đó, sẽ lật đổ cái cũ, chiếm lĩnh vũ đài, trở thành chuẩn mực, rồi, đến lượt nó, cũng trở thành cũ và sẽ phải nhường chỗ cho cái mới khác thay thế. Mỗi cuộc đảo lộn cơ bản như thế được gọi là sự biến đổi hệ h́nh. Đồng thời, đó cũng là lịch sử của những hệ h́nh đối lập nhau và không thể so sánh với nhau được.

Theo Kuhn, có hai giai đoạn hay hai pha trong một quá tŕnh phát triển khoa học. Pha thứ nhất là những ǵ các nhà khoa học đang làm. Ông gọi là “khoa học chuẩn mực”. Khoa học chuẩn mực vận hành bên trong một khuôn khổ lư thuyết và phương pháp luận được cộng đồng khoa học chia sẻ và tán đồng (tức trong một “hệ h́nh”) và xem những điều bất thường hay những dữ kiện phản chứng như là những vấn đề cần giải quyết bên trong hệ h́nh ấy hơn là những thách thức đe doạ sự ổn định của hệ h́nh. Hệ h́nh thường “làm mưa làm gió” trong một thời, như thể đó là chân lư duy nhất không thể bác bỏ. Chẳng hạn, trong thế kỷ 19, hệ h́nh thống trị trong vật lư học là cơ học của Newton.

Thế rồi, khi nền “khoa học chuẩn mực” ấy đạt tới sự “trưởng thành”, sẽ đến lượt pha thứ hai tung hoành: “khoa học cách mạng”. Khoa học cách mạng diễn ra khi cộng đồng khoa học mất niềm tin vào hệ h́nh, bởi nó thật sự tỏ ra bất lực trước những thách thức mới, và khi lư thuyết cạnh tranh lại tỏ ra ưu việt hơn, hay ít ra, không gặp quá nhiều vấn đề nan giải như trong hệ h́nh cũ. Một sự biến đổi hệ h́nh diễn ra, mà ví dụ điển h́nh là bước ngoặt từ cơ học Newton sang lư thuyết của Einstein vào nửa đầu thế kỷ 20.

Tóm lại, theo cách nh́n này, khoa học phát triển theo hai giai đoạn. Nó bắt đầu với sự kiên định và kết thúc với sự khủng hoảng hay sụp đổ để chuyển sang một nhăn quan hay một hệ h́nh mới (Kuhn c̣n gọi đó là “chuyển giao sự tín nhiệm” hay “trải nghiệm về chuyển đổi”).

Có sự “biến đổi hệ h́nh” trong triết học?

Mô h́nh giải thích của Thomas Kuhn, vị giáo sư triết học và lịch sử khoa học nổi tiếng của đại học Harvard, Berkeley và MIT, được thừa nhận rộng răi trong các ngành khoa học tự nhiên. Thử vận dụng mô h́nh này vào lịch sử triết học Tây phương, người ta nhận thấy có sự phù hợp khá lư thú. Một “hệ h́nh” triết học có thể kéo dài nhiều thế kỷ, thậm chí hàng ngàn năm, được xác định từ bốn đặc điểm chính yếu: phạm vi nghiên cứu, đối tượng trung tâm được nghiên cứu trong phạm vi ấy, khởi điểm của sự quan tâm và, sau cùng, câu hỏi xuất phát để từ đó triển khai hệ h́nh. Căn cứ vào bốn đặc điểm ấy, lịch sử lâu dài của triết học Tây phương được Herbert Schnädelbach quy thành ba hệ h́nh chủ yếu như là ba cuộc đại cách mạng trong tư duy triết học, theo sơ đồ khái quát sau:

Không chỉ trong chính trị mà cả trong sự phát triển khoa học, cảm nhận về sự bất lực đang có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng chính là tiền đề cho một cuộc cách mạng Thomas Kuhn (1922 – 1996)

 

Bước sang thế kỷ 21, chưa ai có thể đoán biết được liệu trong các thập niên đầu tiên này có xảy ra một cuộc “biến đổi hệ h́nh” lần thứ tư trong tư duy triết học hay không. Sự thức tỉnh trước khủng hoảng toàn diện về chất lượng cuộc sống trên phạm vi toàn cầu (từ môi sinh đến kinh tế, từ chính trị, xă hội đến văn hoá…) đang kêu đ̣i triết học “mang trời xuống trồng dưới đất”. Lĩnh vực đời sống thực hành với đối tượng trung tâm là con người và văn hoá trước câu hỏi xuất phát: “Tôi sống như thế nào” phải chăng đang là những mầm mống cho một sự biến đổi tư duy? Ta nhớ đến nhận định nổi tiếng của Hegel 200 năm trước, rất gần gũi với cách nh́n của Thomas Kuhn ngày nay: “Sự rung chuyển dẫn đến sự sụp đổ chỉ được báo hiệu bằng những triệu chứng riêng lẻ đây đó. Sự thờ ơ và nhàm chán lan tràn trong trật tự hiện tồn, dự cảm mơ hồ về một cái ǵ chưa được biết đến đều là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy một cái ǵ khác đang đến gần. Sự đổ vỡ dần dần – lúc đầu chưa làm biến dạng tướng trạng chung của cái toàn bộ – bị cắt đứt đột ngột bởi ánh b́nh minh mà một tia sáng chớp loé lên kiến lập ngay lập tức h́nh thể và cấu trúc của thế giới mới” (lời tựa cho quyển Hiện tượng học tinh thần, 1807).

Thách thức của hệ h́nh tư duy

Các hệ h́nh khác nhau thể hiện các cách nh́n khác nhau, thường khó có thể so sánh hay hợp nhất với nhau được. Theo Kuhn, đó là v́ một sự biến đổi hệ h́nh không chỉ là sự thay đổi trong lư thuyết khoa học, trong các giả định và yêu sách mà c̣n trong cách hiểu và định nghĩa khác nhau về các khái niệm trung tâm trong các lư thuyết ấy. Mặt khác, con người không thể đánh giá những sự kiện một cách hoàn toàn khách quan, trái lại, luôn gắn liền với một cách nh́n nhất định nào đó, tức với lư thuyết. Nói cách khác, nhận thức của ta về thế giới mang đậm dấu ấn cách nh́n của ta về thế giới. Chính cách nh́n ấy ảnh hưởng đến sự nh́n nhận sự vật. Do đó, việc nh́n nhận sự vật của ta lúc nào cũng tưởng như đang xác nhận khung lư thuyết truyền thống được ta tin tưởng.

Từ thực tại ấy, chỉ có những cuộc cách mạng tư duy mới có thể giải thoát con người khỏi hệ h́nh cũ, đưa đến những lư thuyết mới và cách nh́n mới về sự vật. Không phải quá lời khi bảo rằng mọi người đều đă từng là “những nhà cách mạng”, v́ những ǵ con người nhận thức hôm nay là kết quả của những cuộc biến đổi hệ h́nh trước đây. Nhưng rồi chính thói quen và sự lười biếng tư duy khiến người ta ra sức bảo vệ hệ h́nh vốn đă thuộc về quá khứ. Một sự biến đổi hệ h́nh là một tiến tŕnh đau đớn về tinh thần, do đó, không hiếm khi việc biến đổi ấy đi liền với sự thay đổi thế hệ, bởi thế hệ trẻ chưa có “duyên nợ” quá nhiều với một hệ h́nh nào đó. Thật mỉa mai khi chính những lư thuyết hay ho nhất và được thử thách tốt nhất trong quá khứ lại có thể biến thành chướng ngại vật lớn nhất cho việc tiếp cận sự việc một cách mới mẻ.

(c̣n tiếp)

Bùi Văn Nam Sơn

Hệ h́nh

Bản thể học

Tâm thức học

Ngôn ngữ học

Phạm vi

Tồn tại

Ư thức

Ngôn ngữ

Đối tượng

Cái tồn tại

Những biểu tượng

Mệnh đề/diễn ngôn

Khởi điểm

Sự ngạc nhiên

Sự nghi ngờ

Sự lẫn lộn

Câu hỏi xuất phát

Là ǵ?

Tôi có thể biết ǵ?

Tôi có thể hiểu ǵ?

Đại diện tiêu biểu

Platon, Aristoteles…

Descartes, Kant, Hegel…

Wittgenstein, Habermas, Apel