“Sự nghiêm chỉnh của lư tưởng”

“Dao sắc mới cắt được mọi thứ”(*)

Bildung: cuộc phiêu lưu của một khái niệm

SGTT.VN - Lư tưởng giáo dục của Humboldt xoay quanh từ Bildung hết sức khó dịch cho trọn nghĩa sang tiếng Việt. Nó là một từ tiếng Đức tiêu biểu mang rất nhiều hàm ư, thường được dịch sang tiếng Anh một cách giản dị là education, trong khi thực ra nó gần gũi hơn với từ formation, hay với từ paideia trong tiếng Hy Lạp. Không phải chỗ chẻ sợi tóc làm tư, tuy nhiên cũng nên lược qua cuộc phiêu lưu của khái niệm này để hiểu Humboldt.

Minh hoạ: Hồng Nguyên

– Trước hết, trong Bildung có từ Bild (h́nh ảnh, ảnh tượng, sự sáng tạo), chỉ rơ nguồn gốc thần học của nó. Những ḍng đầu tiên trong Kinh Thánh (Sáng thế kư), đă nói đến việc thượng đế đă sáng tạo ra con người theo h́nh ảnh của ḿnh. Meister Eckhart (1260 – 1327) có lẽ là người đầu tiên sáng tạo nên thuật ngữ tiếng Đức này trong khuôn khổ học thuyết về Imago-Dei (h́nh ảnh của thượng đế) nói trên. Ở đây, động từ bilden được hiểu là do thượng đế “ban cho h́nh ảnh” của ngài về cả thể xác lẫn linh hồn. Do đó, Bildung là một tiến tŕnh mà cá nhân không có vai tṛ ǵ. Việc tạo dựng h́nh ảnh không phải là công việc của con người mà được mang lại từ bên ngoài.

– Bước ngoặt xảy ra vào thời Phục hưng khi con người thức tỉnh, v́ lần đầu tiên được mở rộng tầm mắt nhờ công lao lịch sử của Johannes Gutenberg phát minh máy in và kỹ thuật in sách. Nhà nhân văn chủ nghĩa Erasmus ở Rotterdam đă có thể viết hàng trăm quyển “sách giáo dục” và sớm nhận ra rằng: con người không chỉ được sinh ra mà là được giáo dục! Khái niệm Bildung bắt đầu rời mảnh đất thần học để đi vào thế giới sư phạm.

– Sang thế kỷ 18, khái niệm Bildung càng được thế tục hoá nhanh chóng: ư nghĩa thần học cố hữu của nó nhường bước cho một cách hiểu mới: con người theo đuổi mục tiêu tự hoàn thiện chính ḿnh. Trong Bàn về sư phạm, Immanuel Kant xác định nhiệm vụ của Bildung như sau: “Giáo dục có hai phương diện: thể xác và thực hành (…) Sư phạm thực hành hay luân lư là nhằm đào luyện con người để có thể sống như một hữu thể hành động tự do (…) Đó là giáo dục nhân cách, giáo dục con người hành động tự do, tự bảo tồn ḿnh và trở thành một thành viên của xă hội, nhưng vẫn có thể giữ vững một giá trị nội tại cho chính ḿnh”.

Như thế, trước thời Khai minh, những mục đích của Bildung là do thượng đế mang lại, c̣n bây giờ là do sự tất yếu của con người phải sống trong xă hội. Nhiệm vụ của Bildung là biến con người “thô lậu” thành một thành viên hữu ích của xă hội nhưng có giá trị tự thân. Đó chính là tiến tŕnh phát triển tất cả những tố chất và năng lực sẵn có. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, những mục đích của Bildung vẫn chưa thực sự do chính con người cá nhân xác lập nên mà vẫn c̣n hướng theo những h́nh dung lư tưởng có giá trị độc lập với cá nhân như những nhiệm vụ đến từ bên ngoài.

– Chính chủ nghĩa duy tâm Đức kế tục Kant mới thực sự biến khái niệm Bildung thành một khái niệm mang tính chủ thể đầy đủ. Bildung bây giờ được hiểu như là hoạt động của tinh thần tự sáng tạo nên chính ḿnh. Johann Gottlieb Fichte (1762 – 1814) – triết gia kế tục Kant và là người cộng tác với Humboldt trong công cuộc cải cách giáo dục – nêu khẩu hiệu ngắn gọn về tiến tŕnh chủ thể hoá này như sau: “Cái tôi như là thành quả của tự ngă tôi!” Và tiếp theo đó là Hegel, hiểu Bildung là tiến tŕnh đi từ bản thể đến chủ thể, nhận ra chính ḿnh trong cái khác của ḿnh để hoàn thiện một tiến tŕnh tự vận động.

Chúng ta là những con người trước đă, rồi mới trở thành những kẻ hành nghề! Khi con dao đă được mài sắc, nó mới có thể cắt đủ mọi thứ được.

– Và sau cùng, chính Humboldt là người đă nâng nhận thức này lên thành cương lĩnh và chương tŕnh giáo dục. Nếu trước đây, “giáo dục” thường gắn liền với “dạy dỗ” và “truyền đạt kiến thức” theo cách hiểu thông thường th́, từ Humboldt, nó mang nặng yếu tố “tự chủ”, tức là sự “tự đào luyện nhân cách”. Humboldt minh hoạ giản dị như sau: “Có những kiến thức nhất định nào đó là điều ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, lại càng phải có sự đào luyện những tâm thế và tính cách mà không ai được phép thiếu cả. Mỗi người rơ ràng chỉ có thể trở thành một thợ thủ công, một doanh nhân, binh sĩ hay công chức tài giỏi, khi người ấy trước hết là một con người và là một công dân được khai minh, tốt lành và đàng hoàng, độc lập với nghề nghiệp đặc thù của ḿnh. Có được sự giáo dục cần thiết cho công việc này rồi, th́ người ấy về sau sẽ dễ dàng học lấy một nghề và bao giờ cũng có thể tha hồ thay đổi nghề nghiệp như vẫn thường xảy ra trong cuộc sống”.

Bên ngoài và bên trong

Như thế, theo Humboldt có sự khác biệt giữa giáo dục theo nghĩa thông thường như là tiến tŕnh điều chỉnh sự phát triển tri thức từ bên ngoài với Bildung như là tiến tŕnh và kết quả của việc đào luyện nhân cách từ bên trong. Khác với giáo dục hay dạy nghề, Bildung không trực tiếp gắn liền với những mục đích kinh tế, mặc dù nó là tiền đề cho việc hướng nghiệp và huấn nghiệp. Heinrich Pestalozzi: “Đào luyện những năng lực nội tại của bản tính con người thành trí tuệ thuần tuư của con người là mục đích chung nhất của Bildung, ngay cả cho người thấp kém nhất. C̣n tập luyện, áp dụng và sử dụng năng lực và trí tuệ vào trong những hoàn cảnh đặc thù là việc dạy nghề. Việc dạy nghề luôn phải được đặt bên dưới mục đích chung ấy của Bildung”. Herder cũng đồng ư như thế: “Chúng ta là những con người trước đă, rồi mới trở thành những kẻ hành nghề! Khi con dao đă được mài sắc, nó mới có thể cắt đủ mọi thứ được”. Friedrich Paulsen, trong Từ điển sư phạm học 1903, tóm tắt: “Không phải khối lượng những ǵ người ta biết hay đă được học tạo thành Bildung, mà là sức mạnh và sự độc đáo riêng có để vận dụng những ǵ đă học. Không phải chất liệu quyết định Bildung, mà là h́nh thức”. Ta gặp lại chữ “h́nh thức”, “mô thức” (eidos) của tư duy Hy Lạp! (xem Sự nghiêm chỉnh của lư tưởng, Sài G̣n Tiếp Thị 20.4.2011).

H́nh ảnh một tam giác đều nói lên ba phương diện của Bildung bao trùm mọi ngành nghề và mọi cấp học, đó là: tri thức, tư duy và năng lực giao tiếp. Tri thức bao gồm những nội dung học vấn; tư duy là các chiến lược khác nhau để mở rộng tri thức như giải quyết vấn đề, mô tả, suy luận, lư giải v.v... C̣n năng lực giao tiếp là biết cách làm cho người khác hiểu rơ tư tưởng, ư tưởng, luận điểm… của ḿnh, và ngược lại, chủ động đặt ḿnh vào trong vị trí và tư tưởng của người khác. H́nh ảnh đối nghịch sẽ là cái thang ba chân khập khiễng! Tóm lại, ba phương diện cơ bản nói trên của Bildung cũng là sự thể hiện mục đích của nó: tư duy và hành động hợp đạo lư, năng lực sáng tạo về lư thuyết, nghệ thuật hay công nghệ.

(c̣n tiếp)

Bùi Văn Nam Sơn