Protagoras và khai minh Hy Lạp

Platon và việc thực hiện ư tưởng

SGTT - Với Platon, ư niệm mạnh hơn thực tại, v́ nó định h́nh thực tại. Phẩm chất đích thực và viễn kiến có căn cứ là bảo bối cho mọi sự ứng xử. Đó là thông điệp then chốt nhất mà ông dành cho hậu thế.

Dụ ngôn hang động

Các tù nhân bị trói chặt trong hang động, mắt chỉ được phép nh́n thẳng. Do không thể cựa quậy, tầm nh́n của họ bị giới hạn vào vách hang trước mặt. Sau lưng họ là một đống lửa, giữa đống lửa và nhóm tù nhân là những vật thể được giương cao qua lại để hắt bóng lên vách động. Các tù nhân không thể thấy đống lửa và những sự vật ấy, và, theo thói quen lâu ngày, xem các h́nh bóng trên vách hang là thực tại. Giả sử ta giải thoát cho một tù nhân, người ấy không hẳn đă vui mừng, trái lại, thấy đau đớn v́ bị loá mắt trước ánh sáng mặt trời. Phải lâu lắm người ấy mới làm quen với sự thật, nhận ra rằng mặt trời mới là nguồn sáng và nguồn sinh lực cho vạn vật. Thấm thía thân phận của những người bạn tù, người ấy trở lại hang động để kể lại sự thật. Thay v́ hoan nghênh, những người bạn tù – do thói quen dần biến thành sự xác tín, thậm chí cuồng tín – đă phản đối kịch liệt, thậm chí c̣n muốn giết chết người bạn tốt bụng ấy nữa. Đó chính là số phận bi thương đă dành cho Socrates, như ta đă biết.

Minh hoạ: Hoàng Tường

Câu chuyện ấy – nổi tiếng với tên gọi “dụ ngôn hang động” – được Platon kể lại trong tác phẩm Cộng hoà cũng nổi tiếng không kém. Câu chuyện muốn nói: biết được sự thật đă khó, chịu đựng được sự thật c̣n khó hơn! V́ thế, theo ông, nhiệm vụ của triết gia là phải nhận rơ “thân phận của con người” (conditio humana), và… đừng sợ chết để nói lên sự thật. “Này bạn Glaucon thân mến, những khó khăn của nhà nước, vâng, của toàn bộ nhân loại sẽ không bao giờ kết thúc, cho tới khi triết gia lên làm vua hoặc những kẻ tự xưng là vua hiện nay hăy trở thành những triết gia đích thực và trung thực”. Ước vọng ấy của Platon khó trở thành hiện thực, nhưng điều ông muốn nói không v́ thế mà mất đi giá trị đáng suy ngẫm.

Platon (427 – 347 trước Công nguyên) – học tṛ của Socrates, thầy của Aristoteles – là khuôn mặt trung tâm của triết học và tư tưởng Tây phương. Alfred Whitehead, triết gia và nhà toán học nổi tiếng người Anh thậm chí c̣n bảo: toàn bộ lịch sử triết học Tây phương “không ǵ khác hơn là những cước chú cho triết học Platon”. Xuất thân quư tộc, nhưng ông không chịu nổi thói cơ hội của bọn cầm quyền Athens. Chúng đă phạm tội ác lần thứ nhất đối với triết học khi xử tử Socrates. Cái chết bi tráng ấy của người thầy đă ám ảnh ông suốt đời, thôi thúc ông đi t́m những phương cách để nâng cao chất lượng lănh đạo. Ông lập “viện Hàn lâm”, cơ sở giáo dục tự do đầu tiên ở phương Tây, để đào tạo được những người học tṛ tầm cỡ như Aristoteles. Aristoteles – thầy của Alexandre Đại đế – có lúc đă đành rời bỏ Athens sau cơn biến loạn, v́ không muốn quê hương ḿnh “phạm tội ác lần thứ hai đối với triết học”! Mỗi người chọn một cách hành xử cho riêng ḿnh, nhưng đều thống nhất ở nhiệm vụ hàng đầu: đi t́m chân lư. Trên con đường ấy, tṛ không nhất thiết phải phục tùng thầy. Aristoteles là bằng chứng. Hăy nghe ông nói: “Platon là bạn tôi, nhưng tôi phải làm bạn với chân lư trước đă!”. “Bạn với chân lư” chính là từ nguyên của chữ “triết học” trong ngôn ngữ Tây phương: philo-sophia.

Khi quyết định việc ǵ, phải nghĩ đến lợi ích của toàn cục. Và cơ quan lănh đạo phải trở thành chỗ hiện thân cho lư tưởng để mọi người có thể tin được.

Ư niệm mạnh hơn cả thực tại

Theo Platon, thế giới đích thực gồm những ư niệm, tức những bản chất có giá trị vĩnh hằng và bất biến, là cơ sở cho thế giới khả giác của chúng ta. Chẳng hạn, những con vật trên thế gian chia sẻ cùng một ư niệm “động vật”. Dù khác nhau về loài, con voi và con kiến đều là động vật. Ư niệm lư tưởng ấy chỉ được hiện thực hoá một phần trong thế giới khả giác của chúng ta như những bản sao mờ nhạt. Không một sự vật cá biệt nào có thể là hiện thân trọn vẹn của ư niệm về nó. Dù tán thành hay không, ta cũng phải đồng ư rằng: cho dù có đạt tới đỉnh cao nào đi nữa, vẫn không có lư do ǵ để tự măn, ngủ quên trên thành tích và không nỗ lực cải thiện nó!

Học thuyết của Platon về ư niệm, thoạt nh́n có vẻ xa vời và khó tin – người ta gọi ông là ông tổ của thuyết duy tâm khách quan – nhưng quả đă mang lại nhiều gợi hứng thú vị cho suy nghĩ:

– Ngày nay, không ai c̣n có thể xem nhẹ những “yếu tố” hay những “sức mạnh mềm”! Chính chúng mang lại những lư tưởng, những giá trị hầu như vĩnh cửu để con người vươn tới. “Tắt lửa ḷng” trước những lư tưởng và giá trị, con người chỉ c̣n là những động vật thảm hại. Socrates sẵn sàng trả giá bằng chính cuộc đời ḿnh cho những lư tưởng và giá trị ấy.

– Với Platon, các ư niệm cũng không phải là những “sáng kiến” chủ quan đến từ một cái “tâm” hay một cái “tầm” vô căn cứ nào đó. Trái lại, chúng phải là kết quả của lao động trí tuệ, v́ không thể t́m thấy chúng một cách dễ dàng trong đời thường. Không một cơ quan, tổ chức hay xă hội nào có thể trường tồn mà không t́m ra và bảo vệ những giá trị cốt lơi.

– Không phải ngẫu nhiên khi Platon – cùng thầy của ḿnh là Socrates – sử dụng phương pháp đối thoại và quy nạp, bởi trên b́nh diện vật chất, sự vật thường không phải giống như nó biểu hiện. Con người phải t́m cách cùng nhau đưa chân lư ra ánh sáng, bằng con đường thu thập thông tin chính xác và xử lư chúng bằng sự kiểm tra toàn diện. Xă hội thông tin ngày nay càng xác nhận yêu cầu ấy.

– Platon, hơn ai hết, tin vào sức mạnh kiến tạo của những ư niệm và vào sự thống nhất giữa thế giới quan, tư duy và hành động. V́ thế, ông đặc biệt quan tâm đến chất lượng và phong cách lănh đạo. Không có bài bản nào có sẵn để điều tiết công việc ấy cả, ngoài việc dày công xây dựng một văn hoá tổ chức và văn hoá cá nhân, vừa bám rễ trong thực tại, vừa chắp cánh cho tương lai. Ai xem thường nguyên tắc này, sẽ tự ḿnh đánh mất ḷng tin cậy nơi người khác: “Sự bất công ghê gớm nhất là sự công bằng giả tạo, đạo đức giả”.

– Platon cũng rất tiến bộ trong cách nh́n về giới tính: “Này bạn, không có nghề nào phù hợp cho phụ nữ chỉ v́ họ là phụ nữ, cũng không có nghề nào là phù hợp cho đàn ông chỉ v́ họ là đàn ông. Năng khiếu được chia đều cho cả hai phái”.

– Con người c̣n là sinh vật có ư thức trách nhiệm: “Con người không phải được tạo ra cho riêng ḿnh mà c̣n cho tổ quốc và đồng bào của ḿnh nữa”, “khi phấn đấu v́ hạnh phúc của người khác, ta vun bồi hạnh phúc cho chính ḿnh”.

– Lư tưởng của ông trong việc tổ chức xă hội là phải phân tích thực trạng chính xác, đồng thời có viễn kiến cho một tương lai tốt đẹp hơn. Khi quyết định việc ǵ, phải nghĩ đến lợi ích của toàn cục. Và cơ quan lănh đạo phải trở thành chỗ hiện thân cho lư tưởng để mọi người có thể tin được. V́ thế, ông vững tin vào sức mạnh của gương mẫu: “Liệu người ta có thể ái mộ mà không noi gương?”

Tóm lại, với Platon, ư niệm mạnh hơn thực tại, v́ nó định h́nh thực tại. Phẩm chất đích thực và viễn kiến có căn cứ là bảo bối cho mọi sự ứng xử. Đó là thông điệp then chốt nhất mà ông dành cho hậu thế.

Bùi Văn Nam Sơn