“Trọng lực của tinh thần”

“Trọng lực của tinh thần”

SGTT.VN - Arthur Eddington, trong Triết học của vật lư học, 1939 (dẫn theo Hans Poser, Khoa học luận, 2001), kể một ví dụ thú vị: một người đánh cá bằng tấm lưới có mắt rộng năm phân. Lần nào trở về, chàng cũng đo chiều dài của những con cá đánh được: không con nào nhỏ hơn năm phân cả. Chàng bèn nêu ra một… định luật tự nhiên: “Không có cá nhỏ hơn năm phân”. Câu chuyện liên quan đến nhiều vấn đề triết học của khoa học!

Chung quanh định luật… con cá

Trước “định luật” ấy, ta có thể có mấy thái độ? Ít nhất là có ba. Thái độ thứ nhất: “Chuyện ấy đâu có hệ trọng ǵ! Vả lại, tôi không thích ăn cá!”. Thái độ thứ hai: “Ồ, thiên nhiên kỳ diệu thật! Cho ta toàn là loại cá đạt… tiêu chuẩn xuất khẩu” (quên rằng nếu thế cũng sẽ mất đi món mắm!). Thái độ thứ ba mang h́nh thức một câu hỏi: “Người đánh cá làm cách nào để bắt cá?”, hay nói khác đi: “Làm sao có thể nêu được một định luật như thế?”

Ba thái độ ấy cũng chính là ba quan điểm quen thuộc của triết học đối với các ngành khoa học riêng lẻ. Quan điểm thứ nhất: các ngành khoa học riêng lẻ giải quyết các vấn đề… riêng lẻ, không phải là những vấn đề thật sự hệ trọng mà triết học cần quan tâm. Tiêu biểu cho quan điểm này là Martin Heidegger, đại triết gia của thế kỷ 20. Theo Heidegger, triết học có một khái niệm “khoa học” khác hẳn các ngành khoa học khác: “Câu hỏi về bản chất của chân lư không bận tâm đến việc đó là một chân lư của kinh nghiệm sống thực tiễn hay là một chân lư nào đó của nghiên cứu khoa học (riêng lẻ)” (Về bản chất của chân lư). Trong Siêu h́nh học là ǵ?, ông c̣n viết: “Siêu h́nh học là sự biến cơ bản… Không có sự chặt chẽ nào của khoa học đạt được sự nghiêm chỉnh của siêu h́nh học. Không bao giờ có thể dùng ư niệm của khoa học làm thước đo cho triết học cả”.

Quan điểm thứ hai th́ phổ biến hơn: người ta vồ vập những kết quả của các ngành khoa học, áp dụng chúng (nhiều khi ngang xương) vào trong lĩnh vực triết học. Có vô số các ví dụ như thế, với nhiều lư lẽ khác nhau: đúc kết và nâng cao thành tựu của khoa học kỹ thuật, gặp gỡ giữa triết học, tôn giáo và khoa học, biện minh triết học bằng những cơ sở khoa học v.v. Tiêu biểu là nỗ lực của nhà vật lư nguyên tử đồng thời là triết gia Pascual Jordan muốn chứng minh sự tự do của con người dựa trên thuyết bất định của vật lư lượng tử. Lúc đầu, ông dựa vào nguyên tắc bổ túc của Niels Bohr về sóng và hạt, cho rằng nó “cho phép kết hợp nhận thức sâu sắc của khoa học tự nhiên với ḷng tin rằng đặc điểm của sinh thể là năng lực thoát ra khỏi những quy định cứng nhắc của các trạng thái bên trong”. Về sau, ông c̣n dựa vào khái niệm “đè nén” trong phân tâm học của Sigmund Freud để cho rằng đó là ví dụ tiêu biểu của tính bổ túc, cho thấy tự do ư chí là một sự kiện có thể chứng minh và đă được chứng minh (Vật lư học trong thế kỷ 20, 1943; Nhà khoa học tự nhiên trước vấn đề tôn giáo, 1972). Thái độ này xuất phát từ một quan điểm triết học có sẵn, rồi dùng các kết quả khoa học để biện minh, chứ không tra vấn tiêu chuẩn so sánh cũng như những tiền đề của các kết quả ấy.

Nếu thái độ thứ nhất hoàn toàn tách biệt với các khoa học riêng lẻ, thái độ thứ hai hoàn toàn lệ thuộc vào chúng, th́ thái độ thứ ba lại là một cách tiếp cận khác nữa. Ở đây, có thể nói, triết học giữ một khoảng cách, đi lùi lại để tiếp cận các ngành khoa học từ bên dưới, bằng cách đặt câu hỏi: đâu là các cơ sở và tiền đề của những kết quả khoa học? Trong ví dụ của chúng ta, định luật “không có cá nhỏ hơn năm phân” có thể có được không, nếu không có tấm lưới có mắt rộng năm phân? Nói theo thuật ngữ chuyên môn của Immanuel Kant, đó là câu hỏi siêu nghiệm (transzendental), nghĩa là vượt lên trên chứ không thoát ly kinh nghiệm để hỏi về các điều kiện mà một kinh nghiệm nào đó có thể có. Hỏi về “điều kiện khả thể” của khoa học và định luật khoa học chính là cách tiếp cận và là nhiệm vụ của một môn triết học đặc thù: khoa học luận.

Như ta đă biết, triết học “bàn về tất cả và không về ǵ cả” (Gai nhọn hay hoa hồng?, SGTT, 16.6.2010). “Bàn về tất cả”, nên khoa học cũng là một đối tượng nghiên cứu của triết học. Suy nghĩ về khoa học cũng cũ xưa như bản thân các ngành khoa học. Bởi lẽ: nếu không suy nghĩ về những mục đích và phương pháp, về đặc điểm của việc hỏi và giải thích những hiện tượng, nếu không t́m hiểu giá trị và khả năng thẩm tra của những câu trả lời th́ không khác ǵ đánh mất cái cốt lơi của khoa học. Nhưng, cũng… “không về ǵ cả” theo tinh thần của Socrates: ông không hỏi về những biểu hiện cụ thể của sự dũng cảm hay sự công bằng mà hỏi về bản thân sự dũng cảm và sự công bằng. Cũng thế, triết học - ở đây là khoa học luận - không hỏi về cái ǵ tạo nên từng khoa học riêng lẻ mà hỏi về bản thân khoa học nói chung.

Từ Francis Bacon…

“Lư tính là một ngọn lửa thiêng. Nên dùng nó để soi sáng thế giới chứ không phải để gây ra hoả hoạn”.

Giacomo Leopardi (1798 – 1837), thi sĩ Ư

Từ Francis Bacon (1561 – 1626) mà ta vừa làm quen với bốn ngẫu tượng (SGTT, 18.11 – 8.12.2010), các ngành khoa học được xem như là cái đảm bảo cho sự sáng suốt, tiến bộ và hạnh phúc của loài người. Nhưng ngày nay, bên cạnh những mặt tích cực, ta lại gặp phải rất nhiều ngộ nhận và cả sự hoài nghi, phê phán về tính thiếu cơ sở, tính quy ước, tính vơ đoán và nhất là những tác hại có thể có của khoa học. Mối quan hệ phức tạp và căng thẳng ấy giữa khoa học và đời sống đ̣i hỏi ta phải trở lại với câu hỏi căn bản “khoa học là ǵ?” trong cách đặt vấn đề của khoa học luận. Câu hỏi ấy thậm chí có thể dẫn ta ra khỏi khuôn khổ của khoa học luận theo nghĩa hẹp để bước vào lĩnh vực của triết học khoa học, một nhận thức mới được h́nh thành trong thời gian gần đây.

Nếu thế kỷ 17 lấy h́nh học và toán học làm mẫu mực, rồi nhiều câu trả lời của khoa học luận lại hướng theo mô h́nh của vật lư học cho tới tận các thập kỷ vừa qua, th́ ngày nay câu hỏi được đặt ra bao quát hơn, bởi khoa học theo nghĩa rộng (khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, khoa học xă hội…) đă và đang trở thành những “điều kiện khả thể” cho toàn bộ hành động và lối sống hiện đại của chúng ta. Chuyến “du hành” khá dài này sẽ bắt đầu với việc phác hoạ các phương diện của khoa học và thử đi t́m một “định nghĩa” cho nó.

Bùi Văn Nam Sơn - minh hoạ: Hồng Nguyên