ThoCaoTanDangTien

Đặng Tiến

 

 

Tính uy mua và nghệ thuật trong Thơ Cao Tần

 

 

Uy mua là phiên âm chữ Pháp humour, tôi t́m không ra từ Việt tương đương, đại khái như là hóm hỉnh, dí dỏm, hài hước, phúng thế, tếu, v.v… Dường như có lần Nhất Linh phiên âm thành u mặc.

 

Uy mua là hóm. Thêm cái ư: vượt lên trên những không may, vượt lên trên tai họa hay bi kịch. Không những lấy được khoảng cách, độ lùi, mà c̣n vượt lên trên. Uy mua là ḿnh tự giễu ḿnh, với giọng đùa cợt chứ không chua cay. Khi Cao Tần xưng ông, xưng «găy cánh đại bàng» th́ không phải là kiêu, mà là hóm. Đại ngôn một chút: uy mua là ḥa giải với số mệnh. Nếu cần thu thơ Cao Tần vào cái hồ lô, th́ có thể hô lên một câu ngắn: ḥa giải với số mệnh.

 

*

 

Trong văn thơ Việt Nam ít có, nhưng vẫn có, uy  mua. Ca dao có câu vô cùng tinh tế:

 

Tưởng giếng sâu, anh (em) nối sợi dây dài

Ai ngờ giếng cạn, anh (em) tiếc hoài sợi dây

 

Ở mức độ đơn giản hơn:

 

Chàng ơi đưa gói em mang

Đưa gươm em xách để chàng đi không

 

Và dân giă hơn nữa:

 

Trời mưa trời gió

Xách đó đi đơm

Chạy về ăn cơm

Chạy ra mất đó

 

(đó: dụng cụ để đơm, bắt cá bằng tre đan)

 

Câu vần vè này không có nghĩa lư ǵ, và cũng không có giá trị ǵ, ngoài chất uy mua. Người không có óc uy mua sẽ cho là quê mùa, vớ vẩn. Nói lén: Xuân Diệu, sinh thời, là người sành và sính ca dao. Nhưng ít uy mua nên dứt khoát không chấp nhận câu:

 

Xùng x́nh như áo mới may

Hôm qua mới mặc, hôm nay mất rồi

 

Vơ Phiến là nhà văn giàu uy mua, lại là người sành thơ Cao Tần, là người viết tựa cho Cao Tần, năm 1978, có nhận xét «trong thơ Cao Tần thường ẩn hiện nụ cười, cười như người Việt Nam vẫn cười trong tận cùng cay đắng». Nhưng anh không chính xác gọi nụ cười dân gian «tận cùng cay đắng» ấy là uy mua.

 

Trong văn thơ cổ điển, bài thơ tiêu biểu cho tính uy mua và đạt đến nghệ thuật siêu đẳng là bài «Bạn đến chơi nhà» của Nguyễn Khuyến, mượn lại ư thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, bài «Gượng đến mừng nhau một mặt không»:

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

 

Thơ Cao Tần hay, thành công nhanh và được yêu chuộng lâu dài, là nhờ vào nghệ thuật có nền truyền thống lâu đời. Chỉ mối sầu di tản không thôi, th́ khó trụ được dài lâu và truyền tụng rộng răi.

 

Những người di tản vào tháng 4-1975, ra đi hoảng hốt, thường không mang được hành trang ǵ. May ra c̣n giữ được đôi ba giấy má tùy thân. Quân nhân có khi c̣n giữ được trong người giấy tờ quân sự:

 

1. Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ

2. Mất nước rồi c̣n hiệu lực hơi lâu,

3. Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ

4. Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?

 

(Bài 17, tr. 52, «Cảm khái», tr. 39) [1]

 

Cao Tần dùng lời ăn tiếng nói dân gian «c̣n hơi lâu», cũng như «c̣n lâu», là từ ngữ phủ định dứt khoát: c̣n lâu tôi mới yêu anh, nghĩa là không bao giờ. Nhưng trớ trêu hiểu ngược lại, theo cú pháp b́nh thường cũng không sao, có thể c̣n lư thú: nước mất rồi th́ giấy tờ sẽ có hiệu lực vĩnh viễn. Câu 2, bản chất nó là uy mua. Nhưng v́ tính đa nghĩa, chất uy mua loăng đi. Uy mua ở đây là câu nói tự nhiên, không chơi chữ, không tu từ (nhưng ở nơi khác, như câu đối, th́ uy mua dùng phép tu từ, kỹ thuật ngôn ngữ, cái này không loại trừ cái kia).

 

Câu 4 rơ chất uy mua: câu hỏi tự nhiên, cực kỳ duy lư. V́ cực kỳ duy lư mà nó ngớ ngẩn, thậm chí điển h́nh cho khái niệm phi lư (absurde) phổ biến trong triết học phương Tây khoảng giữ thế kư XX, du nhập vào Việt Nam, chủ yếu là qua tiểu luận và tiểu thuyết Camus. Nhưng điều này không can dự ǵ đến Cao Tần: uy mua của anh bắt nguồn từ tính dí dỏm trong truyền thống dân tộc. Chúng ta ai có dịp lân la tṛ chuyện với các bà cụ nhà quê, ít học hay thất học, sẽ ngạc nhiên về câu chuyện, ngôn ngữ cực kỳ sắc sảo, với những nét hóm hỉnh, tinh anh kỳ diệu của họ. Cao Tần sống thời đại ḿnh, trong một bầu không khí văn hóa, văn học, một khung cảnh xă hội và trải qua một cuộc chấn động đổi đời, th́ tự nhiên tâm tư mang âm vang «phi lư» sẵn có trong tư trào hiện đại. Và t́nh cờ thôi, nét dí dỏm dân gian trong anh vấp phải cái phi lư của lịch sử - tạo chất uy mua nhuộm màu phi lư có giá trị không riêng ǵ cho người Việt di tản, lưu vong, mà cho cả làng văn học Việt Nam trong nền văn chương thế giới. Chiều kích nhân văn và toàn cầu của thơ Cao Tần, nếu có, trong chủ quan của tôi, là chất uy mua trong tư trào văn học đang giảm tính bi kịch và tăng chất uy mua.

 

«Giờ gia hạn nơi đâu» là một câu thơ hóm hỉnh có hiệu lực, nhưng tự thân nó không có chất hóm. Nét dí dỏm dựa vào cả câu thơ, trong cả đoạn 4 câu và toàn bài tả những giấy tờ c̣n lại trong ví. Mệnh đề dẫn nhập là:

 

Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ

Tái tê cười…

 

Động từ «cười» báo hiệu cho câu thơ tếu, dù tự thân chưa phải tếu v́ chữ tái tê, nhưng đă đưa tín hiệu uy mua, mà xưa kia Pascal gọi là «tiếng cười của tâm hồn» và gần đây Jankélévich gọi là «nụ cười của lư luận». Hỏi gia hạn nơi đâu, lư sự th́ lẩn thẩn mà đậm đà t́nh cảm v́ đưa lên câu trước, ráp lại thành  mất nước rồi… c̣n gia hạn nơi đâu». Câu thơ bi thiết đ̣i lại một không gian đă mất, cứa mạnh vào niềm «nhớ nước đau ḷng con cuốc cuốc».

 

Đoạn thơ sẽ tăng giá khi đặt vào toàn bài thơ:

 

Trong ví ta này một thẻ căn cước

H́nh chụp ngay đơ rất mực cù lần

Da nhợt nhạt như bị đời nhúng nước

Má hóp vào như cả tháng không ăn

 

Mười tám tuổi thành công dân nước Việt

Tên chụp h́nh làm ta xấu như ma

Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết

Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà (…)

 

(Bài đă dẫn)

 

Mất nước tan nhà th́ nào có can dự ǵ đến tên chụp h́nh mà chửi nó là «thằng khốn nạn». Đây là một lư luận hoàn toàn phi lư – mà Camus gọi là raisonnement absurde – để đáp ứng vào một hoàn cảnh phi lư,

 

(…) một đời quái đản:

Hai mươi năm xưa làm thằng nhỏ di cư

Hai mươi năm sau thành nhà thơ di tản

 

(«Hát ngao trên tuyết», tr. 43)

 

Mắng tên chụp h́nh là giống như Nguyễn Khuyến, giận tuổi già, mắng cái răng, trong bài « Sất xỉ ».

 

Cao Tần không làm thơ trào phúng như Tú Xương, nhưng cùng chia cái ngông, cái «ông» với  Tú Xương: «Ông nốc rượu vào ông nói ngông (… ) Khách hỏi nhà ông đến, nhà ông đă bán rồi…»

 

Xuân Diệu có viết: «thực t́nh là tôi thấy những câu thơ xúc cảm của Tú Xuơng chiếm phần lớn nhất (…). Trào phúng là vỏ, mà ruột th́ thật cảm xúc đớn đau, th́ cũng thành trữ t́nh thôi». Ư này áp dụng vào thơ uy mua của Cao Tần cũng đúng. Từ thế kỷ 19, các từ điển Littré và Larousse đă cho uy mua là «cái vui nghiêm trọng» (la gaité serieuse), Kierkegaard đi sâu hơn, cho là «nỗi thống khổ nội tại của nhân sinh». Nhưng nói như thế th́ hết cả… uy mua.

 

Giới làm văn học Việt Nam chưa mấy quan tâm vào phong cách uy mua, mà họ đồng hóa với trào phúng, dù rằng uy mua chỉ là thành tố nhỏ của trào phúng, có khi nó hủy diệt chất trào phúng; ngược lại trong văn chương bi kịch của  Kafka, Beckett, Ionesco… thường có uy mua. Thơ Cao Tần mang tính uy mua dân dă Việt Nam, trong truyền thống văn học dân gian: ca dao, tuồng chèo, câu đối – nhất là câu đối – và một số chuyện tiếu lâm cười mỉm. Đỉnh cao trong truyền thống đó là bài hát «Mất ô» của Trần Tế Xương, một đêm đi hát cô đầu:

 

Hôm qua anh đến chơi đây

Giầy dôn anh dận, ô tây anh cầm

Rạng này trống điểm canh năm

Anh dậy, em vẫn c̣n nằm trơ trơ

Hỏi ô, ô mất bao giờ

Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa

Chỉn e  rày gió mai mưa

Lấy ǵ đi sớm về trưa với t́nh

 

Mất ô mà vẫn thản nhiên, ỡm ờ, thậm chí c̣n huê t́nh như thế, quả là uy mua tuyệt vời.

 

Cao Tần cũng có cái giọng ấy, khi nhắc đến những câu hát cũ c̣n đọng trong tim óc người xa xứ, thỉnh thoảng ê a bật lên môi, với bạn cũ hay với một ḿnh:

 

Hát tự nhiên đi mà bạn quí,

Giọng bạn khàn khàn hơn chú vịt bầu

Đừng e sẽ mất ḷng tri kỷ,

Dù nghe bạn hát chỉ thên đau

(...)

Bạn bỗng kể: khi về gặp nàng

Có lúc du dương nàng bắt hát

 

Cứ hát, ta nghe mà bạn quí

Mai đời di tản lại buồn tênh

Rồi ra cặp được đào thơm Mỹ

Bạn sẽ trăm năm hát một ḿnh

 

(Bài 2, tr. 2, "Hát một ḿnh", tr. 29)

 

Uy mua ở đây do bất ngờ ở kết luận, như bài hát "Mất ô", Cả hai tác giả tinh quái đùa vui với một cảnh ngộ. Ở Tú Xương là nét dí dỏm nhẹ nhàng: mất ô này th́ sắm ô khác, “lấy ǵ đi sớm về trưa với t́nh“ là một lời trách khéo, mắng yêu. Mắng mà vẫn yêu. Nhưng cái anh mất nước và mất vợ th́ vô phương bù đắp. “Rồi ra cặp được đào thơm Mỹ“ là một cơ may ngang trái, có khi là oan trái. Đào Mỹ nào mà chả thơm. Nhưng chả nhẽ trăm năm với nhau chỉ bằng cái lỗ mũi? Hát một ḿnh tự nó có khi là niềm vui, là hạnh phúc. Nhưng ở đây là khổ lụy không có lối thoát. Cái mâu thuẫn mà Kierkegaard gọi là  «niềm thống khổ nội tại của nhân sinh» ở đoạn trên, không phải là triết lư viển vông.

 

Từ “đi sớm về trưa với t́nh“ đến “trăm năm hát một ḿnh“, Cao Tần theo gót Tú Xương và xứng là môn sinh. V́ vậy khi Cao Tần tự xưng là Nhà Thơ Di Tản th́ tôi hoạn mất phần sau, gọi bạn là: Nhà Thơ Tú Cua.

 

*

 

Hóm hỉnh với tấm h́nh căn cước của chính ḿnh, hay với giọng hát vịt bầu của người bạn là tinh nghịch với hoàn cảnh cá nhân; nhưng gắn liền với lịch sử đất nước, nên thơ Cao Tần có âm vang lâu và sâu, vừa tếu vừa mếu. Chua mà ngọt, bùi bùi, đăng đắng.

 

Nhưng khi cao hứng, nhà thơ đùa cả nước:

 

Bài học lớn từ khi đến Mỹ

Là ngày đêm thương nước mênh mang

Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí

Hận gấp ngh́n lần khi chúng đánh ông văng.

 

Nếu mai mốt bỗng đổi đời lần nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê hương

Ông sẽ mở ra ngh́n ḷ cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương

 

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp

Phản động ǵ cũng chỉ sống trăm năm

Bồ bịch hết, không đứa nào là Ngụy,

Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng

 

(Bài 6, tr.18, "Bài học lớn", tr. 26)

 

Uy mua là vượt lên khỏi thân phận, và ḥa giải với mệnh số - ở đây là thân phận nghiệt ngă và mệnh số bi đát. Uy mua là tầm nh́n, lối nghĩ hiền triết vốn có trong tư tưởng phương Đông và truyền thống dân tộc. Cao Tần phát ngôn trong tư thế người bại trận, một chế độ bại trận, bị“đánh văng“, mất hết tài sản, chức năng, quyền lợi. Thậm chí c̣n bị xúc phạm trầm trọng trong t́nh cảm và danh dự. Cao Tần không đầu hàng, không thỏa hiệp, không hận thù  v́ thua cuộc, bị “đánh văng“, mà v́ đất nước “nghèo xí“. Uy mua nơi Cao Tần bắt đầu từ  ḷng khoan thứ, ước ao mọi người đều bồ bịch, cùng nhau học tập yêu thương. Tuy nhiên không phải ai ai cũng sẻ chia tấm ḷng cao đẹp ấy, từ phía bên này đến phía bên kia, chưa kể là không phải ai ai cũng chấp nhận uy mua. Cuộc đời Nguyễn Trăi không biết bao nhiêu gian truân, mà đă viết được câu:

 

Duy một tấm ḷng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông...

 

Trong bước đường lưu lạc,“ngày ngày phóng xe như thằng phải gió, đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan“ Cao Tần đă mất nhiều, nhưng không mất hết. C̣n lại là phần  nghĩa khí, cốt cách, khiến anh xứng đáng với tiền nhân.

 

*

 

Uy mua là độ lùi, khoảng cách, tầm nh́n từ xa, từ cao. Cao Tần, trong ngành không quân, quen nh́n đời từ trên cao:

 

Hơn mười năm nhà ông bay trên cao

Mặt đất nâu xanh nằm ngoan dưới gót

Nhân loại tí teo xinh đẹp chừng nào.

Nhân loại hiền từ như những con sâu.

 

Những đêm đen tàu trôi qua thành phố

Cả đất trời nở triệu ánh sao xinh

Mặc những đấu tranh lọc lừa dưới đó

Nh́n từ cao nhân thế thật thanh b́nh

 

(Bài 16, tr.48. "Trên non cao", tr. 23)

 

Không phải v́ quen bay trên mây mà con người có óc uy mua.

Nhưng v́ quen nh́n cao, nên khi bị «đời khốn kiếp đă quăng xuống đất», Cao Tần đă rủ bạn cùng đăng sơn:

 

Ta biết nhà ông rầu thấy mồ

Thôi cuối tuần này theo ta lên núi

Lên thật cao nh́n xuống đời lô nhô

Rũ bớt bụi trần, quen thân  múa rối

 

(…) Trên núi cao ta biết rành một chỗ

Có ḥn đá xanh, có gốc thông già

Ngồi trên đá ông sẽ thành Trang Tử

Hồn nhẹ tênh theo bướm lượn chiều tà

 

(Bài đă dẫn)

 

Văn Trang Tử, Nam Hoa kinh thanh thoát, cao siêu, có khi làm người đọc ít quan tâm đến phong cách uy mua: «nếu cánh tay trái ta hóa thành con gà th́ nhân đấy ta gáy canh; nếu cánh tay phải ta hóa thành viên đạn, th́ ta sẽ kiếm chim quay» (Thiên đại Tông sư).

 

Nhưng chỉ nói đến nét dí dỏm thôi th́ không bày tỏ rốt ráo nghệ thuật trong thơ Cao Tần. Điểm chính là thi pháp huê dạng, đa dạng, pha tạp những câu đùa vui, những từ dung tục trong kho khẩu ngữ b́nh dân, phong cách «thô tháp» theo nghĩa grotesca hay grotesque của người Ư, Pháp, thịnh hành thời  Phục Hưng.

 

Những câu dung tục xen vào nhiều h́nh ảnh tinh vi:

 

Những mái tôn cười ran hạnh phúc

 

Bài 14, "Băn khoăn", gồm 5 khổ, bắt đầu bằng một câu thơ nhiều âm bằng, na ná giống nhau, nhưng khác nhịp, người tinh ư mới nhận ra:

 

Chú nào đi đường ta b́nh minh này

(…) Chú nào trưa nay ngồi trên đồi ta

(…) Chú nào ngồi trước hiên ta chiều nay

(…) Chú nào biết yêu thương vài nụ hồng

(…) Chú nào đêm nay kê đầu gối đó.

 

Chứng tỏ Cao Tần nắm vững âm pháp và tôi luyện lời thơ kỹ lưỡng, có ư thức sâu sắc về kỹ thuật, tương quan giữa ư và lời.

 

Tiêu biểu nhất cho thi pháp Cao Tần là bài "Hát ngao trên tuyết" không có trong ấn bản đầu tiên. Chúng tôi trích toàn văn để người đọc thưởng lăm:

Hát ngao trên tuyết

Khoác áo lông xù giả làm tráng sĩ

Lên ḍng sông đá bước nghênh ngang

Cây gậy trúc trông sặc mùi vũ khí

Múa tưng bừng vào thinh không giá băng

 

Khoái thay đời ta một đời quái đản

Hai mươi năm xưa làm thằng nhỏ di cư

Hai mươi năm sau thành nhà thơ di tản

Một đời quê hương khét mùi súng đạn

Một đời xót xa bằng hữu lao tù

 

Khoái thay chân ta những chân phiêu bạt

Đi dọc quê hương đi ṿng địa cầu

Đi thênh thang thở đồi cao gió mát

Đi ngất ngây thương lúa vàng hương cau

Đi uống rượu mừng, đi chia tan tác

Đi tràn hạnh phúc, đi ngập thương đau

Đi sỏi đá ṃn, bếp hồng trước mặt

Đi bừng băo biển quê hương phía sau.

Những chân thú hoang lạc rừng đất lạ

Những bước ngậm ngùi đi chẳng về đâu 

 

Sông không đầu đuôi sông màu đá cục

Dưới trên lẫn lộn trời đất mang mang

Ta ngửa cổ làm thằng khùng Bắc cực

Một ḿnh cười cùng thinh không giá băng

 

Khoái thay hồn ta một hồn dị thường

Khi bốc lên núi lưng trời cũng thấp

Khi bi ai thân cỏ mọn bên đường

 

Sông dài! Sông dài! Ta đi chẳng hết

Thân trượng phu, hừ, mục trong áo cơm?

Núi cao! Núi ca ! Ta về không đến

Chí trượng phu, hừ, chôn trong giá băng ?

Tháng 2/1978

 

Quan điểm bài này vẫn là tầm nh́n cao trong không gian, xa trong thời gian; tác giả nh́n đời và nh́n ḿnh từ xa, thanh thoát, thảnh thơi, bao quát và bao dung. «Khoái thay» ở đây không phải là đắc chí tự măn mà là niềm thanh thoát giải tỏa, hóa giải kiếp người «đi tràn hạnh phúc, đi ngập thương đau» để rồi «đi chẳng hết, về không đến».

 

Khí thơ tuôn ào một mạch, như một dải sông Hoàng, mộng và thực xô đẩy nhau trong âm vang hào sảng, bi tráng, ngất ngất Hồ Trường, đạm đạm Thâm Tâm. Bài thơ vượt ra khỏi tâm sự cá nhân lưu vong, loang ra thành tiếng vang của một thời đại trong nhiều âm sắc, chính trị và văn hóa. Lịch sử, địa dư, phong tục, tự sự, tâm t́nh chen  lấn vào bản hào ca chất ngất chữ nghĩa, dạt dào nhạc điệu, trùng trùng h́nh ảnh.

 

Lối «hát ngao» hay cuồng ca này nằm trong truyền thống lâu đời ở phương Đông cũng như phương Tây. Trong văn học Lư Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230-1291) có bài "Phóng cuồng ngâm", bản dịch Trúc Thiên 1969, có thể Cao Tần có biết. Cùng một hào khí khinh khoát, cùng một «tay gậy nhởn nhơ phương ngoài phương» nhưng thơ Cao Tần thực tế, dựa trên những h́nh ảnh cụ thể lảy ra từ những mảnh đời ly tán,  từ quê hương xa cách, mang chất ngậm ngùi cảm động. Từ đó nó là khúc tráng ca tiêu biểu cho một thời đại, đồng thời nó đánh dấu một khúc quành trong tâm thức Việt Nam. Bằng nghệ thuật - ở đây là thi ca và uy mua – con người có khả năng vượt qua thân phận phi lư, mà lịch sử oan nghiệt, như một đám cháy lớn, hoặc đă tạo ra, hoặc đă làm trầm trọng thêm, hoặc đă khơi động cho sáng tỏ hơn.

 

Nghệ thuật không chế ngự, không khắc phục được lịch sử, nhưng bảo vệ phẩm chất con người sau hố bom định mệnh; thậm chí nghệ thuật c̣n vượt lên, để tồn tại sau lịch sử. Lịch sử là sự việc đă, hay đang qua; nghệ thuật là tác phẩm c̣n lại, là t́nh đoàn kết và liên đới lâu dài của dân tộc, giữa con người trong nhân loại.

 

To tiếng như vậy, dù đúng dù sai, là cũng tàn mùa… uy mua, cùng với mùa rau muống năm nay.

 

Coi như v́ tham chữ mà rách chuyện.

 

Vị chi là: câu thơ Cao Tần ba mươi năm rồi, tôi đọc vẫn chưa thông.

 

Viết xong, đọc lại bản thảo, mới nhận ra điều sơ đẳng : bút hiệu Cao Tần cũng là uy mua.

 

Đặng Tiến

Orléans, 20/8/2006

 

 

 

 



[1] Thơ Cao Tần, bản 1978, do Tạp chí Bút Lửa và nxb Người Việt thực hiện, b́a do họa sĩ Nguyễn văn Mộch, khổ nhỏ 10x17 cm, giấy màu hồng, in kiểu tiểu công nghiệp, 56 trang, gồm 17 bài thơ làm trong năm 1977, đă rải rác đăng trên báo Bút Lửa. Các bài thơ không có tên, chỉ đánh số từ 1 đến 17.

   Sau đó, 1984, nhà Tin Yêu tại Seattle của nhóm Thanh Nam tái bản, khổ lớn 21x27 cm, Ngọc Dũng vẽ b́a, in đẹp, có lời giới thiệu của Vơ Phiến viết tháng 1-1978. Những bài thơ lần này có tên và không theo trật tự lần trước. Và thêm 1 bài làm 1978 và 2 bài 1982. Tiểu luận này sử dụng bản 1978 ; khi trích dẫn ghi cả hai tham bản cho tiện việc độc giả tra cứu.