Nhớ Phạm Đ́nh Chương

Phan Lạc Phúc

Description: https://2.bp.blogspot.com/-kVH7ARqLFPE/VsjumwZ4W5I/AAAAAAAArao/84WJtZVEL98/s400/6-7308-1391793593.jpg

Hoài Trung, Thái Thanh, Hoài Bắc Phạm Đ́nh Chương 

 

Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đ́nh Chương ra đời tại Hà Nội vào năm 1929, trong một gia đ́nh nghệ sĩ, học Trường Bư Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc như Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay những sầu khúc nhạc phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...

Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đ́nh Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc Phúc, hay Kư giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi, được viết ngay sau khi có tin buồn.

Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái B́nh Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đ́nh Chương đă mất rồi, Hoài Bắc không c̣n nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi ḿnh, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, c̣n đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đ́nh Chương - Hoài Bắc. Già th́ càng cần có bạn, mà bạn già th́ càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ng̣i ngoi nước sang được đến đây th́ bạn đă đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đ́nh Chương đă đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đă mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đă tắt. 

Tôi chơi với Phạm Đ́nh Chương đă lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học tṛ mắt sáng với môi tươi"(1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).

Ngày ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3),"Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đă là một tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người anh nổi tiếng: anh Phạm Đ́nh Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đ́nh Viêm, một cây "tenor". Chương c̣n có một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. C̣n người em út của Chương, Thái Thanh th́ lúc ấy Thái Thanh c̣n nhỏ, đang c̣n học tiểu học, c̣n là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.

Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó c̣n có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi th́ cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn:"Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu".Phạm Đ́nh Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học tṛ Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đ́nh nổi tiếng. Lại c̣n đàn ngọt, hát hay, c̣n là ca trưởng của học sinh trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học tṛ nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng th́ Phạm Đ́nh Chương tư cách quá. 

Thời ấy, Nhật đă vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố phải "pḥng thủ thụ động", các trường học phải đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có c̣i báo động là nghỉ; học tṛ kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự t́nh. Về quê th́ tiện cho tôi quá, tôi có nhiều tṛ: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm ḷng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên ṿm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh c̣n in. "Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương ơi, Chương c̣n nhớ ngày hội về quê ḿnh không? C̣n nhớ con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đă 50 năm rồi, đă nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta đă thành người thiên cổ mất rồi. 

Phạm Đ́nh Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây v́ không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó c̣n là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận ḿnh là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học tṛ nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đă cạn ngày, hội hè đă văn, những cây gạo miền Bương Cấn đă tưng bừng nở đỏ th́ cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, c̣n quanh năm nước chảy lặng lờ. Học tṛ tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi. 

Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không c̣n đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức - Ư - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy b́nh dân học vụ, đi khất thực, đi biểu t́nh. Chúng tôi say mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lăng mạn: đ̣i độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đ́nh Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến. 

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

(Quang Dũng) 

Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vă. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ... 

Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại t́m ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách"Quán Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đ́nh Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn nhă phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh ngồi đan. 

Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê ḿnh bây giờ Tây nó đánh đến đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đ́nh Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức ǵ. Anh Phạm Đ́nh Viêm (Hoài Trung) c̣n đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài"con vỏi con voi" và"con mèo trèo cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. C̣n Phạm Đ́nh Chương th́ công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát "ǵ mà có con c̣ bay lả bay la". 

À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh c̣ ấy là cánh c̣ bay qua rặng vải triền sông Đáy? C̣n cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta"Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng"(7).

Tôi nhớ măi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng như thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi th́ dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc kư ninh pha loăng là cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đă"áo bào thay chiếu ..." (8) c̣n đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lăng mạn đầu đời đă trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 c̣n Chương và gia đ́nh hồi cư năm 51. 

Gia đ́nh Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đă trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đ́nh Chương phục vụ trong pḥng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không c̣n nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đă được định h́nh. Tôi cũng không c̣n nhớ rơ gia đ́nh Phạm Đ́nh Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp. 

Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài G̣n chơi, thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng h́nh ảnh, lịch tŕnh diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài G̣n vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" mà đă yêu th́ yêu hết ḿnh; chương tŕnh của Ban Thăng Long trên đài phát thanh rất được lắng nghe - tŕnh diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua "giấy" báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng c̣n chưa "đă". Buổi tŕnh diễn xong rồi, người ái mộ c̣n ở lại để t́m cách đến thật gần, nh́n thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của ḿnh. Người miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế. 

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đă tự hỏi: "V́ sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt về nhạc lư, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ư kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dă của ḿnh tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí(Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nh́n cánh c̣ bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng ḥ dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng).Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đă được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm ḷng người. 

Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thăi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đă đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đ́nh tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức. 

Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của ḿnh. Năm ấy ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Vơ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam tŕnh diễn. 

Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không c̣n chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?). 

Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai tṛ phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đă chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương tŕnh nhạc mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này. 

Buổi tŕnh diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đ́nh Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt. 

Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đ́nh Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này. 

Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đ́nh Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học tṛ mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng th́ đầy lúa thơm mềm, con sông th́ đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn c̣n chưa hết, Chương c̣n rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hăy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đ́nh Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá: 

Quê hương tôi nghèo lắm ai ơiMùa đông thiếu áo (9) ... 

Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đ́nh Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm ḷng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi t́m thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi ḿnh. Đó là thực chất nhạc Phạm Đ́nh Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long ... 

Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đ́nh Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng t́m về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đ́nh dọn về một căn nhà nhỏ đường Vơ Tánh (Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đ́nh Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm nhớ măi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ... 

Lúc này, h́nh như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống b́nh thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề x̣a, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài tḥng Studebaker đă được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đă tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng h́nh hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đă làm thay đổi Phạm Đ́nh Chương. 

Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đă ră đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính ḿnh. Phạm Duy đă mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, c̣n tiếng reo vui chan ḥa và nhân ái của Phạm Đ́nh Chương cũng không c̣n xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có tŕnh làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng. 

Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rơ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đă khép lại rồi. Tiếng cười đă tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đă nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau th́ có sẵn và Chương muốn giữ một ḿnh nhưng lời oán hận th́ không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài G̣n Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của ḿnh. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự"Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nh́n chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của tác giả. 

Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng". Th́ cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi pḥng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng"Chương cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một pḥng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đă tắt, về một khung cảnh Việt Nam đă xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đă tàn. Phạm Đ́nh Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đă tạo nên không khí Đêm Màu Hồng v́ phần lớn khách đến đây đều là thân hữu. 

Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào th́ chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan th́ phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại c̣n phi lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu". Thanh Tâm Tuyền th́ phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam th́ Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một ḿnh (ít khi lắm). Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn pḥng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên"Quang Minh Đỉnh". 

Trong những năm "Đêm Màu Hồng"tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc gửi vào. 

Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo"Chúng tôi thân với nhau trong một t́nh thân thiết rất buồn rầu". 

Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đ́nh Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang c̣n sót lại. Các bạn có ư tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương. 

Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ hôi đến quăng Trần Quốc Toản th́ mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái tṛ nắm tay, nắm chân như vậy, nh́n nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đă đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đ́nh Chương. 

Phan Lạc Phúc