Hoàng Cầm: giỗ đầu

Hoàng Cầm: giỗ đầu

 

Thế là Hoàng Cầm ra đi đă được một năm. Nhân ngày giỗ đầu, NXB Nhả Nam  in Thơ Hoàng Cầm, một ḍng thơ đặc thù Kinh Bắc.

 

 

Dưới đây là hai bài viết về thơ và người một nhà thơ đầy  truân chuyên cay đắng. Tôi xin trân trọng chuyển đến độc giả, thắp hai nén hương tưởng niệm một đấng tài t́nh. Nam Dao

 

Hoàng Hưng 

 

Hoàng Cầm – một đời “nhớ tiếc”, một đời “níu xuân xanh


Nhà thơ Hoàng Cầm bên bờ sông Đuống (ảnh chụp năm 2000)

Là nhà thơ được yêu mến bậc nhất trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi ĺa trần, Hoàng Cầm vẫn là một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.

Về đời, tuy ông đă kể khá nhiều với người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là những câu chuyện t́nh đă được thi vị hóa và huyền thoại hóa trước tiên bởi chính người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng nhất trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội tŕnh ra ánh sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm t́nh ư rơ ràng như Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống..., thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa được hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa của một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng ḿnh không minh định được, ông c̣n sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những câu chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…

Lại nữa, truyền thông nước ta góp phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến diện. Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa t́nh quanh quẩn với hai loại t́nh: t́nh quê hương quan họ và t́nh “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dăi cho một số đông ṭ ṃ hơn là thực sự thưởng thức văn chương.

Có lẽ đây là dịp để, sau những tràng vỗ tay ồn ào cũng như những ṿng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân oán thời cuộc thường chi phối sự nh́n nhận tác giả và tác phẩm đă lùi xa vừa đủ, ta có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Ḥang Cầm một cách thuần túy hơn.

Tôi chưa dám nói về kịch thơ, truyện thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người con gái nước Tần, Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với tài năng của người nhuần nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm thuộc một thể loại sân khấu tiếc rằng v́ hoàn cảnh lịch sử đă không được nuôi dưỡng. Tôi tự hạn chế trong lĩnh vực THƠ viết hoa.

Điều đầu tiên tôi muốn nói, Hoàng Cầm đa dạng hơn những ǵ công chúng quen nh́n thấy.

Ở nửa cuối cuộc đời, người ta dễ thấy ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dăi, uỷ mị, thậm chí nhu nhược, có ǵ đó nữ tính,“theo ḍng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người ông phần “âm” có sẵn đă nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong hoàn cảnh ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ư đến tính nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian đồng bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. V́ thế người ta dễ quên đi gương mặt hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới giải phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn hét cho vỡ toang lồng ngực/ V́ say sưa t́nh thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống, ta bỏ qua những anh “bộ đội bên sông đă trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt đầu run trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi cùng tác giả trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều v́ cái lá Diêu Bông, cỗ bài tam cúc chị chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng bi phẫn Trăng lên chém đầu ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao… Người ta cũng tránh nhắc đến dũng khí của một nhân vật chủ chốt Nhân Văn – Giai Phẩm, người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực tác giả của nó (Con người Trần Dần).

Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh. Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lăng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn kháng chiến, đầu ḥa b́nh. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 th́ ta nhiều lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt em về bến hoá sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy theo những mối t́nh đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết sinh lực (không c̣n bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).

Giữa hai đầu lăng mạn đầu đời và “níu lăng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều mà nổi đ́nh đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ trữ t́nh phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu vào nách vợ/ Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo điều… Dao ngọc với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két chân giường mới/ Gặm hết t́nh yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết tụng ca anh hùng với những h́nh tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh nằm là ḍng mương/ Anh ngồi là cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người để ư đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam (U ǵ, tặng khối u của Đặng Đ́nh Hưng) đầy bi phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt vơng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ng̣m cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy băi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai ĺ ái ân ǵ dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u ǵ sau xe h́nh mắt lé mă tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà nép lá bồ đề”.

 

Về Kinh Bắc

 

Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn chặt nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn cảnh ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế ch́m đắm hoàn toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng” – Đặng Đ́nh Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.

Về Kinh Bắc là tổ khúc tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi gắm tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả tin, rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời ǵ hơn là nỗi ḷng bơ vơ, ngậm ngùi, có chút hờn trách.

Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Với những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo (prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - lướt nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xơa ngủ…), Kinh Bắc huê t́nh non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lạiGió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon ḿnh), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Tṛ chuyện ǵ ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc (H́nh nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa t́nh, đa truân trong nhịp Năm. Với phác hoạ những hội hè trong nhịp Sáu. Có thể nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và nhiều bài thơ lẻ cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa ngh́n năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) romance.

Nhưng cũng phải nhận rằng, Về Kinh Bắc in đậm vào dư luận và sống trong ḷng công chúng phần nhiều ở chùm thơ đặc biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu bông, Quả vườn ổi), mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ - Cỏ Bồng thi). Không nói tới việc số phận đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường của tác giả đă góp phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi th́ ngọt, nuốt vào th́ đắng, uống rồi th́ chuếnh choáng ngậm ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991).

Ngoài chùm thơ trên, có Về với ta, một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng với công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa đựng những ǵ là Hoàng Cầm nhất.

Về mặt thi pháp, thực ra Về Kinh Bắc chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rơ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt, nhưng nó rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng Cầm nhất.

Trước tiên là một nhạc điệu Hoàng Cầm: dặt d́u, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan họ ngân nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả, trong khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí c̣n du dương hơn lối thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của ḿnh trong những cuộc gặp gỡ bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.

Rất rơ một lối tạo h́nh Hoàng Cầm: xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở những bài thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ư không nói ra được (có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn – Giai Phẩm nhưng đă từ tầng lư trí ch́m xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát, nên sức ám ảnh rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm của thi pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.

Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt dẫn tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của tiềm thức, bản năng, không từ sự lập ư (cho nên ông hay nói về tiếng người trong đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của ḿnh), rồi phát triển bài thơ xen kể với tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài hoa óng chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát vàng son song ít khi rơi xuống sáo ṃn.

Có một nét rất riêng Hoàng Cầm nữa: sự tạo dáng kư thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông Đuống, cái dáng nghiêng nghiêng của con sông đă ám ảnh bao nhiêu người yêu thơ ông (có nhà nghiên cứu c̣n ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống thực!). Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài G̣n lần đầu, tôi bỗng “phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ cái dáng nằm nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cái đêm trằn trọc nhớ về con sông quê sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông chênh của đời ông! (Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). Trong Về Kinh Bắc, ta gặp cái dáng bơ vơ Em đứng nh́n theo em gọi đôi, lạc lơng Từ đấy em đi khắp sông khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn mộng du Chị đưa em đến chốn này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà không đi… em vọng ai đâu mà hóa đá… ḱa rau muống dại kín em rồi…

Bao trùm tất cả, Về Kinh Bắc dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ Hoàng Cầm như một cơi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá diêu bông” là cái lá ǵ, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng cứ ngỡ như là thật; có những chất liệu b́nh dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam cúc đôi cá đ̣ng đong... nhưng lại kết thành hư ảo hàm chứa một cái ǵ bí ẩn. Hoàng Cầm thuộc ṇi thi sĩ giao tiếp được với người âm, biết cách gọi về những ǵ đă mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh ám ảnh như mộng triệu đ̣i được giải mă.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991). (Tác giả rất tâm đắc ư cuối này, ông lấy nó khi viết Chân dung tự thú năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/ Đẩy chiều nay về xa/ Thường tṛ chuyện với ma/ Như với người đang sống”).

Về Kinh Bắc là tập thơ được Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lư Quốc Sư Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật v́ vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bản thảo sau đó được ông chép tặng một số rất ít người quư mến mà số lượng ngày càng tăng dần, nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng x́ xầm về những “ẩn ư” oán trách xă hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về tập thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó. Nhưng đến khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ do Hoàng Cầm chép tặng được truyền ra hải ngoại, th́ Về Kinh Bắc đă “thành vấn đề” đối với “các cơ quan chức năng”.

Năm 1982, một nhà văn người Việt từ Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc đó, t́nh cờ tôi từ Sài G̣n ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh ấy vụ án Về Kinh Bắc ra đời với mục tiêu phá vỡ từ trong trứng một âm mưu “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.

Tháng 8 năm 1982, tôi – người mang tập bản thảo do Hoàng Cầm chép tặng với phụ bản tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái và b́a của nhạc sĩ Văn Cao – bị bắt, ngay sau đó là tác giả của nó.

Trong quá tŕnh điều tra, v́ quá yếu mệt, để mong sớm được ra, nhà thơ đă nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ qua một số bài thơ trong tập và ông tỏ ḷng ăn năn hối lỗi. Điều trớ trêu là, sau khi có lá thư thỉnh nguyện của một số trí thức Pháp gửi về xin trả tự do cho nhà thơ, ông lại bị kéo dài thời gian giam giữ. Ông được “tạm tha” sau 16 tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) tại Hỏa Ḷ (nhà tạm giam Hà Nội) và Trại tạm giam của Bộ Nội vụ - từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối tháng 12 năm 1983.

Thời gian bị giam giữ đă ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần của Hoàng Cầm. Phải đến hàng năm sau, nhờ sự động viên của bạn bè, ông mới dần hồi phục.

Sau Đổi Mới, một số bài trong Về Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng nhất mà dăm năm trước đây c̣n bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 th́ Về Kinh Bắc được xuất bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng Cầm năm 2007, tuy Về Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập thơ kể trên.

Sau Về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm không c̣n tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không c̣n giữ được nhạc điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở tâm trạng tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đ̣i yêu, níu yêu, không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng, nuốt cay: Gió cấp ba thổi méo thân h́nh… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ thuốc mà ông mang tên càng già càng đắng.

Cuộc đời và thi nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển h́nh cho điều mà tôi coi là một trong những “bí quyết” thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm giữa con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người Hoàng Cầm là một mẫu lư tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ; thất bại trong cuộc đời tranh đấu phủ thêm hào quang cho thi nghiệp của ông. Nằm giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời ḿnh là động lực tự nhiên với ư thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây. Nằm giữa kể chuyện và giăi ḷng. Nằm giữa thực và mộng, lộ và ẩn, h́nh ảnh và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và thế sự. Thơ Hoàng Cầm dễ lan truyền mà không b́nh dân, đáp ứng tâm lư thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xă hội khá đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển ḿnh từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong cảnh tranh tối tranh sáng, tiếng x́ xào lắm khi c̣n mạnh hơn lời b́nh chính thức.

Ngẫm lại một đời thơ ông, tôi thấy ngay từ thưở 20 đến khi về cơi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái nhu cầu nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Bao nhiêu tha thiết hàm chứa cái ǵ bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quư báu nhất sắp vuột khỏi tay.

Đời ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đă mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa như rụng bàn tay”), mà ông chỉ ḥng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh. Níu một mối t́nh ảo,níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu ḷng ta cũng v́ thế.

 

Hoàng Hưng

Bán đảo Tân Phong mùa trăng tháng 3/2011

 

Nguồn : Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do Công ty Nhă Nam phát hành tháng 4/2011 đă bị biên tập cắt, sửa một số chỗ.  

 

Nam Dao

 

Hoàng Cầm, một vị thơ [i]

 

Trong ḍng thơ Việt Nam ở thiên niên kỷ 20, thơ Hoàng Cầm là những giọt nước trong veo nhưng mặn chát vị đắng, vị của thuốc mang tên Hoàng Cầm.  Gặp anh đầu thập niên 80  kỷ trước,  liên hệ trân quí này hẳn đă ảnh hưởng đến nghiệp viết của tôi, và hàng năm, cứ dịp Tết tôi lại điện thoại thăm hỏi chúc tụng anh. Mỗi lần, anh lặp đi lặp lại ‘’ cố về, để anh em c̣n gặp nhau…’’. Tết năm ngoái, đứa cháu anh trả lời : ‘’ ông cháu nay chẳng c̣n nhớ ǵ nữa rồi! ‘’ Cho nên, tuy tin anh về một cơi khác không đột ngột, nhưng sao vẫn rất đỗi đau ḷng. Thơ Việt Nam  lại vắng thêm một cái bóng khổng lồ, bóng anh.

Xin chép dăm câu thơ anh làm trên gường bệnh  gửi tôi :

Th́ em cứ đi

                    đă quá ṿng định mệnh

Sao c̣n loanh quanh bên số phận của rừng

Tưởng đă đến một tầng sâu giun bướm

Hóa ra c̣n con dế vẫn dưng dưng

 

Và, thay nén nhang thắp lên tưởng nhớ anh trong ngày giỗ đầu, tôi xin trích  đoạn những  ǵ  tôi viết về anh.

 

*

Thế đấy.  Anh chép miệng cười.  Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt.  Anh bảo: «...tên nó vận vào người», lại rót rượu. Đó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm.  «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đă cả năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày.  Tiếng nước reo ṣng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên.  Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim.  Tôi ngắm anh.  Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.

Anh quả là một người hào hoa.

Chị đi đâu về.  Tôi đứng dậy.  Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước.  Tôi nh́n chị.  Chị quả là một người đàn bà đẹp.  So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng.  Có lẽ chị biết là ḿnh đẹp.

Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đă hẹn tôi rồi không đến một năm xưa.  Tôi nh́n anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này.  Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ṛn ră của họa sĩ Hoàng lập Ngôn «... muốn th́ đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !»  Ngồi trên chiếc ghế  đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ.  Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng.  Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ.  Như hát chầu văn.  Như rủ người nghe nhập đồng.

Quái lạ.  Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ.  Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh.  Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám.  Vâng, hiểu th́ chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn.  Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm.  Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa.  Nó thành những tác động tâm - sinh lư.  Nhịp tim không c̣n đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể b́nh thường.  Nhịp thở không c̣n đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ ǵ.  C̣n lớp tám ?  Tôi phải nói thế nào ?  Tôi biết  như kẻ có ḷng tin vào Thượng Đế, nhưng làm sao nói đây ?

 

Tôi lẩm nhẩm «... Ta soi. Chỉ c̣n ta đạp lùi tinh tú.  Ngủ say rồi đôi cá đ̣ng đong».  Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những v́ sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt.  Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi ḿnh trong lạch nước, và an b́nh thay, đôi cá đ̣ng đong c̣n nhỏ bé hơn nữa đă ngủ say rồi.  Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ.  Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú.  H́nh ảnh đó c̣n bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao.  Ḥn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lư kiếp người của Camus.  Lăn đá là h́nh phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một v́ vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo.  Văn minh nằm ép dưới quyền lực.  C̣n luân lư, luân lư đă nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.

         H́nh ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đ̣ng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về t́m an nhiên bằng giấc ngủ của đ̣ng đong. May thay, đ̣ng đong vẫn có đôi. Đó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Đông khác Tây là vậy ?  Nhưng thế th́ sao «nó vận vào người» được nhỉ ?

*

Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió.  Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nh́n.  Ảnh có cụ Śn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đă khuất.  Có anh.  Có Duy.  Có tôi.  Những người vẫn c̣n.  Có chị Băng, dĩ nhiên.  C̣n có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Śn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi.  T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng.  Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm.  C̣n L, cô dạy học ở Hải Pḥng, nhưng nay đă lưu lạc đâu đâu bên Ḥa Lan rồi.  Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích.  Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm.  Tôi bảo «Chẳng biết các ông ấy gặp nhau th́ thế nào nhỉ ?».  Khi mời anh, Duy chỉ nói «...anh lên xem bức tranh cụ Śn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !».  Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Śn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh th́ thôi không đ́nh đám nữa.  Cụ yếu lắm rồi...».  Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa.  Lư do?  Tôi kêu lên «...miễn bàn !».   Cả nước ḥa hợp ḥa giải.  Văn hóa th́ thế.  Một dúm tác phẩm.  Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nh́n mặt ông kia.  Con cháu sau này trông vào th́ sẽ nghĩ ǵ ?  Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !»  rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»

Tôi không hề hỏi  đến lúc  là đến lúc nào.  Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là  nên , thế nào là  không nên .  Bữa ăn nhà cụ Śn khá vui vẻ.  T và L chạy lên chạy xuống.  Cụ bà đi vào đi ra.  Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ư các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện.  Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch.  C̣n anh, anh hồn nhiên.  Cụ Śn mang  bức tranh cũ ra.  Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọâi mũ có đính sao.  Cụ Śn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy !».  Anh mơ màng «...đẹp và trẻ.  Có lẽ đẹp v́ trẻ...», mắt nh́n T và L đang cúi xuống thẹn thùng.  Quả thế.  Tôi cũng nh́n.  Cô giáo ở Hải Pḥng đằm thắm hơn.  Cô nh́n lại rồi chạy vụt đi.  Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại  mơ màng chút u uẩn than tro.  Cô làm vẻ thản nhiên, nh́n về phía sân, nơi nước ao đă tràn lên mấp  mé ven bờ.

 

Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông.  Cơi nhân duyên chập chờn oái oăm.  Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này.  Và chia với chúng tôi.  Mỗi kẻ một vẻ đời.  Làm lính.  Làm thơ.  Kéo đàn.  Dạy học.  Đến từ một bờ Đại Dương xa lắc bên kia.  Lên từ Cảng, quê hương của người tài t́nh thơng một câu thơ nhập « Sinh ra tôi đă có Hải Pḥng...» cho bản trường ca  Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hăm và hiếp văn học vào năm 1956. Đè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề  có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở ph́ pḥ, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời «...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo ǵ !».  Chữ đéo không thừa.  Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành th́ dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu c̣n trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ c̣n lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô.  Nhưng chuyện đă xưa rồi.  Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra th́ người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xă hội tươi đẹp. Có lẽ chính v́ vậy là đă đến lúc các ông ấy nên gặp nhau ?  Tôi ngây thơ nghĩ thế.  C̣n anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế.  Cụ Śn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đă cao.

         Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi.  Hẳn vô t́nh.  Giá mà cố ư nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Śn với Duy.  Hai đưa lau sàn xi măng đă lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn.  T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.

Tiếng ễnh ương bờ ao.  Vẫn gió.  Gió xào xạc.  Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc.  Tiếng cụ Śn ho.  Tiếng đập muỗi.  Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy.  Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ c̣n là một ḥn bi ve óng ánh màu hy vọng  một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đă là một kẻ có  niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và c̣n hy vọng nên mới viết được những gịng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đă bao trùm  cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.

H́nh như ai tḥ tay sang nắm lấy tay tôi.  Tôi để yên, ḷng ngậm ngùi, vờ ngủ.  Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T.  Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đă đi ra bến xe về Hải Pḥng.  Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Đại Dương bên kia.  Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu :  Em đi rón rén trời chưa sáng.  Bước động ao bèo bỗng hóa sông.

*

         Thuở đó anh biết tôi yêu thơ.  Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp.  Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng.  Là như bị thôi miên.  Là buông hết, và thả luôn đời ḿnh vào cái ḿnh yêu, hệt như những kẻ tử v́ đạo.  Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang h́nh tượng Đức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm v́ ḷng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.

 

Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp.  Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.»  Tôi bảo «Nếu phải xin phép th́ cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !».  Người ta trừng mắt.  Tôi quay lưng đi.  Người ta cho là tôi thách thức quyền lực.  Tôi th́ không.  V́ tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đă «đến lúc» v́ bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đă quá đọa đầy.  Đ̣i hỏi của hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ văng đă chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng.  Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng.  Nước ơi, chỉ có t́nh của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia.  Người ta lắc đầu nghi ngại.  Tôi đến chơi với anh.  Với Trần Dần, Lê Đạt.  Với Đặng Đ́nh Hưng.  Người ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ».  Tôi giật ḿnh.  Th́ ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đă trải và cái đẹp !  Nhưng tôi đă thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.

Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời.  Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà tḥ qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên.  Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ.  Anh kể :

«... Tên nàng cũng là Yến.  Chúng ḿnh lên đồi, mặt đất xanh ŕ, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà.  Nắng đă bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa.  Ngả ḿnh nằm xuống thảm cỏ, nàng nh́n, cái nh́n như bảo ban.  Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu ḿnh kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt.  Khi buông nàng ra, ḿnh đọc «Một con bướm lửa đậu môi».  Nàng nắm hai tay ḿnh kéo ra, miệng thầm th́ «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm».  Nh́n lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, ḿnh tiếp «Ba làn mây lửa về thăm».  Nàng như say sóng, ôm choàng lấy ḿnh để giữ thăng bằng trong một cơn băo biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc.  Ḿnh lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt.  Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».

Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật.  Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác...  Tôi tin lời anh.  Anh hồn nhiên nhận ḿnh là người may mắn.  Như vậy cái ǵ có thể lại «vận vào người» anh?

*

Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ.  Hiện tượng này nằm dưới tầng ư thức của chính anh.  Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính v́ thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc...  mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho ḿnh chép lại được.».

Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông.  Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ ḿnh được mấy bài ?».  Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Đợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi.  Đó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng.  Tôi đáp «năm, sáu bài...».  Anh cười «...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có năm thôi !». Thật ra c̣n bài U ǵ anh làm gửi cho Đặng Đ́nh Hưng.  Bài Đợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng th́ đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :

Mùa chưa về

Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ

 

Dăy tre xa giấu biệt giải khăn điều

Khi gậy nắng ăn mày đă quăng sau núi

Hàng tre nhà

                 yếm trả  

  Mẹ về

  lều dột đón mưa đêm

Th́ chị đi

    mấy lối chân chim

Để Mẹ về bao phương bèo nổi

Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi

Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại.  Tôi xin trích thêm một đoạn :

Em bước vào đ́nh

ôm cột bốn người ôm

Em rẽ sang chùa

lay chân hộ pháp

Sau chùa tát đêm một, chạp

Gầu giai ai vớt Chị ơi ḷa lơa thân trăng

Chị lỡ xe hồng

Mẹ đi lấy chồng

Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc

Mật vàng mọng rách vỏ nâu non

Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng (đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ).  Và đây là đoạn cuối:

Có hôm Em lần xuống bếp

Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu

Một con mèo mướp ruỗi chân chiều

Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng

Tưởng như Mẹ về

Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa

Tưởng như Chị về

Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre

Bao giờ Chị về

tóc phủ vai Em chiều hương nhu

Bao giờ Mẹ về

Buộc yếm đào phai vỗ hát ru

 

Khấn thầm như gặp Chị

Mắt nứa cứa tay Em

        vẫy đón đầu làng

Khấn thầm

                 như mẹ lỡ đ̣ ngang

Miệng hé hạt na nḥa bến vắng

Cổ tay tṛn đẫn mía gie

Không

Bầu mẹ không tṛn

Bưởi Chị không hoa

Đă hết năm tu hú gọi rừng già

Đă sang mùa

tu hú ngủ rừng xa

Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát.  Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần.  C̣n thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn t́m, xem sao.

         Điều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên : Thơ hay là Thơ có tác động sinh lư lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim.  Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lư, tạo ra cái đa dạng của thất t́nh : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ...  Đă nói đến nhịp, là nói về nhạc.  Thơ hay không phải chỉ một câu hay.  Thơ hay, không phải một chữ hay.  Tṛ kén chữ cho khéo là tṛ kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ th́ ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa.  Thơ hay là thơ nh́n dưới góc độ một tổng thể.  Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ.  Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lư gây lên thất t́nh.  Thơ hay chính nó là Nhạc.  Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu.  Nhưng vần th́ thật ra thừa, và điệu, rất sáo ṃn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn (nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ).  Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó.  Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam v́ mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh.  Thơ anh có Mẹ, có Chị.  Những «Bầu Mẹ không tṛn, bưởi Chị không hoa».  Cũng v́ vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ Làng.  «Chị lỡ xe hồng.  Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...».  Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non».  Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng ?

*

Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt.  Ngẫm lại, h́nh như những vết chém phi lư và vô nghĩa, những vết chém không làm sao t́m được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó.  Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó.  Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục.  Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần  cửa sắt chấn song.

(…) Về Hà Nội lần này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đă «co cụm» lại sau Đại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đă tŕnh bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền.  Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào t́nh yêu.  Hay bất cứ ǵ đồng dạng với t́nh yêu.  Anh cho tôi một món quà mừng cái t́nh yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh h́ hục chép tay trên một quyển vở học tṛ.  Tôi vào Sài G̣n trước khi bay sang Pháp.  Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra.  Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài.  Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối ǵ cả : nhà xuất bản Văn Học  đă in nó năm 1994.  C̣n bắt anh, họ bắt v́ lư do ǵ rồi giam cầm anh một thời gian khá dài ?  Bán rượu ?  Hút thuốc phiện ?  «Hủ hóa» Việt Kiều ?  Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc.  Báo loan tin anh bị tù.  Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra.  Cứ thế, tôi khóc.  Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt.  Duy có một người da đen đến ch́a cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»

Sau đó, tôi có xin về nước, nhưng người ta không  cấp thị thực nhập cảnh,  bảo có lệnh cấm. Lệnh miệng. Và chịu.  Eo ôi !

*

(…)    Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm.  Dĩ nhiên, Đại Hội VI đă Đổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa.  Vậy th́ những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội.  Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà  lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đă vội khập khiễng đi t́m rạng đông.

Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lư Quốc Sư.  Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu th́ dẹp rồi.  Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống.  Anh đây.  Anh gày g̣, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đă khuyết một cái.  Anh ngẩn ngơ nh́n.  Tôi ôm lấy anh.  Chúng tôi ngồi nh́n nhau.  Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh.  Tôi nói «... có điều ǵ khúc mắc anh cứ hỏi».  Anh bảo «... giá em về trước hai năm th́ anh em ḿnh chẳng được thế này đâu».  Tôi im lặng.  Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư.  Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đă lấy lại rồi chứ ?».  Anh cười, cái cười đau xót.  Đó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù th́ anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến.  Nước mắt ứa ra, anh kể :

«... đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn.  Mở cửa màn, con bướm chui vào.  Anh linh cảm, anh biết, anh khấn.  Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ.  Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con».  Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở».

Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ ǵ.  Sau, tặng tôi tập thơ Men Đá Vàng, anh viết «...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc».  Đấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc.  Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ b́nh thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.

 

         Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc.  Anh nghiêm mặt bảo «...cái vốn từ của cậu chưa đủ.  Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều.  Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...»  Tôi căi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá th́ đều là «quá tải».  Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Đạt.  Anh Đạt khéo kết chữ cũ cho ra mới.  C̣n anh Dần, anh đi t́m chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ.  Anh quay hỏi «...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?»  Anh Đạt lư giải.  C̣n anh Dần, anh nh́n tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».

Căi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ.  Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều.  Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương.  Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập.  Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Đường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát.  Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Điểm.  Đấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đă đổ mồ hôi như vậy.  Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe.  Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh.  Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa.  Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.

Hợp rồi tan.  Tôi lại phải ra đi.  Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm phút».  Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn.  Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc.  Tôi nh́n theo anh trong bóng đêm.  Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm.  Bóng anh măi cũng xa dần rồi mất tăm.  Lúc ấy tôi cũng khóc.

Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.

*

Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục.  Những  năm anh tù tội nằm trong trại giam  lại ám ảnh tôi.  Anh tội ǵ?  Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người?  Nhân danh ai, nhân danh ǵ?  Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !

Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền.  Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện tṛ duy nhất với những tội nhân.  Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ.  Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay.  Nhưng h́nh như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ.  Đó là một điều đáng hănh diện.  Đồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.

Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc.  Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo.  Hăy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của t́nh bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện...  Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đă tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ĐĐ..., yêu vân vân và vân vân.  Tôi mừng, ông ấy vẫn đó.  Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội.  Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.

Lại men cái ngách 43 Lư Quốc Sư.  Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn c̣n một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng.  Bây giờ, không ai réo tên nhau.  Phải bấm chuông.  Tôi hồi hộp.  Cửa mở.  Anh tḥ đầu nh́n, mắt nhắm mắt mở.  Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây.  Anh c̣m xuống.  Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả.  Anh cười.  Ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao th́ cũng như hơi mếu máo.  Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir.  Bàn kính.  Nhà lát gạch hoa.  Thế th́ đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ?  Thế th́ đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bấc vặn thật thấp li ti đốm cháy ?  Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm ǵ.  Leo gác hai, anh đẩy cửa.  Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ.  Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào.  Rồi dăm chiếc đóm.  Tôi ngồi sụp xuống đất.  Tôi bắt đầu nhận ra anh.  Anh cười.  Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.

Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai.  Khi bố con tôi đến th́ người nhà anh bảo anh ốm lắm.  Chúng tôi lại leo gác hai.  Trong pḥng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, ḿnh đắp chăn.  Tôi cúi xuống nh́n.  Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn.  Anh không nhận ra tôi.

Anh phải vào viện.  Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương.  Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi «tŕnh diễn» thơ ở Thái B́nh th́ phải.  Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ.  Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm.  Chúng tôi đến th́ đă có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội.  Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ nhỉ !».  Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ».  Ngớ ra, Việt không hiểu nh́n tôi ḍ hỏi.  Anh tiếp tục, rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... C’est sur».  Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ.  Un poète-fou !»

Đúng đấy.  Có nhà thơ nào không điên?  Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy nỡm lắm.  Già thế mà lên tivi cứ nói t́nh yêu này, t́nh yêu kia...  Nghe ngượng đỏ cả mặt!».  Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, v́ anh ấy sống phút nào là chong mắt t́m một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ.  Nỡm ư ?  Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không c̣n yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả t́nh yêu và đam mê.  Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không c̣n ǵ ngoài cái hành tŕnh của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia.  Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành tŕnh đó  anh cứ đi một ḿnh.  Chúng tôi xin ở lại.

*

         Chúng tôi ở lại. Với nghiệp dĩ của những kẻ tin rằng hoang tưởng chẳng thừa trên cơi người. Thiếu, thiếu vô cùng, hoang tưởng như nước trong sa mạc. Và ảo ảnh một cái hồ long lanh nhấp nhoáng sau những đụn cát vàng cháy là lư do để không bỏ hành tŕnh đến sự sống. Hoàng Cm len vào tiểu thuyết Trăng Nguyên Sơ của tôi. Nhân vật ‘‘hắn‘‘ trong trích đoạn cuốn tiểu thuyết đẻ non, mới in th́ không được phép phát hành, đi t́m bảo vật  bảo quốc hộ dân ḥng giải phép trấn yểm đất Đại Việt  của  tay phù thủy Cao Biền phương Bắc:

(…)  Lần theo bản đồ chi chít tên đường, tôi t́m được phố Lư Quốc Sư. Trước mặt một quảng trường, Nhà Thờ nghễu nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết những tháng năm không chăm sóc tu bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa, tôi vội bước, nh́n số nhà rồi rẽ vào một cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến đây một lần nhưng bây giờ chẳng c̣n nhận ra ǵ nữa. Quán rượu ngày xưa giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa sắt khóa bằng một sợi dây xích sắt to bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông. Một đứa bé ra bảo: "Ông cháu đau, không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên gác báo, khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn người, tôi leo một cái cầu thang hẹp, bậc không đều, cao thấp khó lường.

Nhà thơ ngước mắt nh́n tôi. Ông ta đây sao? Mười lăm năm trước, ông đă đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế đâu gần ba năm v́ cái tội chính thức là… bán rượu lậu. Nay, tóc ông bạc phau, móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng ph́ pḥ thở.

"Nhà thơ chắc không nhận ra... tôi!"

Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi tôi gặp ông với hắn cách đây mới thế mà đă mười lăm năm. Ông mỉm cười:

"Lâu nhỉ! Ḿnh trí nhớ kém rồi... Lại mới ngă cầu thang, xương chậu bị vỡ, ngồi lên không được! Xin lỗi phải tiếp khách trong cái thế khó coi này!", ông khẽ cười.

Hỏi ông đă gặp hắn chưa, ông nhắm mắt, đáp:

"Bao giờ về cậu ấy cũng đến thăm tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà Nẵng vào..."

"Anh ấy có nhắc sẽ đi t́m chùa Báo Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"

"À... Chùa xây cuối đời Lư, bị phá thế kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà Thờ Lớn ngay trên móng nhà chùa, ở góc phố. Làm ǵ c̣n chùa Báo Thiên? Khi cậu ấy hỏi, tôi đă bảo vậy!"

Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:

"Nhà thơ có biết anh ấy đi t́m ǵ không?"

"Biết..."

"Nhưng đó là một niềm hoang tưởng..."

Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà thơ nghe nội dung những bức e-mail tôi nhận được và kết luận:

"Sợ anh ấy hoang tưởng ở mức bệnh hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"

Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:

"Đừng sợ. Một thứ vật quư hiếm như vậy, có hoang tưởng th́ cũng tự nhiên thôi. Vả lại, người nghệ sĩ nào chẳng hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện thực phải giẫy bỏ để giải phóng sáng tạo... Hoang tưởng càng lớn th́ khả năng nghệ thuật càng cao. Như cái nghiệp ấy mà!"

Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ thều thào tiếp:

"... Thế là tháng nay không thấy mặt, chẳng hiểu đă t́m ra chưa, rơ cơ khổ!"

Ra đường, tôi ṿng lại Nhà Thờ. Đứng dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ nghệ cho khách du lịch, tôi ngước nh́n cây thập tự cao vút chọc vào nền trời sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh xe ḅ chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa thay vào thế chân trong một cuộc thay nhà đổi chủ.

Thế quyền và tâm linh phải chăng là hai mặt một đồng xu trong một thể cân bằng không bao giờ ổn định. Đồng xu quay sau cái búng tay của tên phù thủy biến chuyện đời thành tṛ ảo thuật quay tít tḥ ḷ, và tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay ngửa!".

*

Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu.  Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết».  Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết.  Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả.  Nó đèo bồng trên lưng tự do.  Và càng tự do th́ gánh nặng càng nhiều.  Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm ǵ và sống ra sao với cái tự do đó.  Cho những người theo đ̣i nghiên bút, làm ǵ là viết ǵ.  Sống ra sao đồng nghĩa với ư thức trách nhiệm thế nào với người và với ḿnh.

Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ.  Anh ta viết kèm «... kể từ nay, tự do không c̣n là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết.  Con người biết tự ḿnh cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an.  Chúng ta có quyền hy vọng...».  Anh ta kể ra hoài băo thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không c̣n sợ hăi ǵ nữa.  Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết ǵ được.  Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đă viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ.  Từ đó, anh chịu.  Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang.  C̣n hai trăm trang kia, anh đă lặng lẽ viết trong nỗi lo âu.  Lo và sợ.  Đến độ vợ con anh cũng không hay biết.  Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế.  Anh buồn bă trả lời «...ngày trước, tôi viết chống một cái ǵ để cho một cái ǵ khác chưa có.  Nó thật rơ ràng.  Bây giờ ư ?  Cái ǵ đó chưa có đă thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không c̣n định hướng viết cho cái ǵ được nữa.  Có nhà xuất bản bảo tôi, hăy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán.  Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới.  Tôi đă thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi.  Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...».

Nhưng trách nhiệm đó là ǵ?  Có lẽ với anh là ca ngợi T́nh Yêu chăng?  Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại.  Sách in lem nhem, b́a photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994.  Tôi cầm cuốn sách, ḷng ngậm ngùi.  Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị t́nh phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa ? Đó là những vần thơ t́nh rất đẹp.  T́nh yêu Kinh Bắc.  Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành.  Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng.  Lỡ làng, bến t́nh không người đợi.  Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu.  Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương.  Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng...  Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị vơng mây trôi.  Lỡ làng, em đứng nh́n theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ.  Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ.  Lỡ làng, là đời anh.  Bởi anh biết yêu.  Biết yêu là yêu đến cuồng dại (…)

Để kết một cuốn sách  đọc lâu rồi nên tôi đă quên tên, André Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết «Je vous souhaite d’être follement aimée.» (Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại).  Được yêu thôi ư? Cũng tạm.  Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều.  Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ.  Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết Yêu là hành động, và cho một nhà thơ, Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ nghĩa.  Những con chữ đẹp.  Những con chữ có đời sống.  Muốn đẻ ra chúng, th́ có hề chi những cơn đau trở dạ. Th́ có hề chi những lỡ làng.

Tôi nhớ đă hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa ǵ?  Anh cười, có chút ǵ như là chua xót, «Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».

Hoàng Cầm  c̣n vận vào thành một vị thơ.  Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của ḍng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20.  Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đă sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp - hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva.

Nhưng hề chi, có hề chi.

*

Chép lại, như để khép một vết thương, dăm câu viếng anh:

                             Ánh sao vun vút

                             băng qua Thiên hà

                                                       mông mênh

                             mưa Thuận Thành nhe nhẹ

                            ướt tà váy Đ́nh  Bảng gió  lộng

                                                                  bồng bềnh    

                       

                             Bây giờ…

                                      những giấc mơ vuột khỏi  tầm tay

                             chiều hoang quả rụng,  chẳng  ai  hay

                             Bây giờ

                                               tiếng tu hú gọi b́nh minh khản cổ

                            tiếng con chào mào hót muộn ngày mai

                           

                           Nhưng thôi…

                           Bây giờ

                                               xin Anh  cứ  yên  ả  nằm nghiêng

                            trên giải sông Ngân

                                                         một ḍng phẳng lặng

                            chảy xuôi  đến  an nhiên,

                                                         nơi chắc không cần nước mắt.               

 

Nguồn : Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do Công ty Nhă Nam phát hành tháng 4/2011 không biết có  bị biên tập cắt, sửa cắt ǵ không?   

 



* Trích mt  phn t ‘’ Mt v thuc đng, mt v thơ ‘’ đă in trong ‘’ Nhng con ngưi, nhng bóng ma’’, NXB Văn Mi, California, 2006, và mt phn t tiu thuyết Trăng Nguyên Sơ, NXB Lao Đng  và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ng Đông Tây, Hà Ni, 2008.