Nam Dao giới thiệu

Nam Dao giới thiệu

(để nhớ lại những ngày nghe Nguyễn Duy đọc bài thơ khi c̣n chưa ra ḷ)

 

Hành tŕnh thơ - Đánh thức tiềm lực

Tùy bút

NGUYỄN DUY

Nỗi nhớ "thời khó thở" (**)

Hồi này, thời thế “dễ thở hơn” rồi. Thẫn thờ nhớ một “thời khó thở”, thời hậu chiến gian khổ, kéo dài hơn một thập kỷ sau 1975. 30-4-1975, cả dân tộc thở phào nhẹ nhơm trút gánh nặng 30 năm máu lửa khốc liệt. Một thằng lính làm thơ là tôi không chỉ thở phào mà c̣n nhảy dựng lên, hát toáng lên:

“…Tôi đi t́m thân nhân qua rừng già nguyên thủy/ tôi đi t́m thân nhân qua rừng kẽm gai Mỹ/… Hỡi ai không gặp thân nhân/ xin cùng tôi chung mái nhà ấm áp/ là nguyên vẹn nhân dân - Tổ quốc/ ta hành hương trên đất đai sum họp/ nơi nào cũng có thân nhân!...” ( T́m thân nhân - 1975).

Phơi phới vui ḥa b́nh, thống nhất. Và hi vọng xanh rờn. Trên đất đai này chỉ c̣n người Việt Nam với nhau. Đă có người tếu táo rằng: “Từ nay sẽ không c̣n kẻ ngoại bang nào dám đụng đến cái lông chân của người Việt Nam!”. Vậy mà đáng tiếc thay, chính người Việt Nam với nhau lại đưa nhau vào một thời ngạt thở mới.

Thời đó, sau 1975, bạt ngàn lính giải ngũ, trở lại nơi xóm làng xơ xác sau chiến tranh. Triệt để hợp tác hóa ở nông thôn. Đánh tư sản, triệt nhà giàu ở thành thị. Kẻ vào trại học tập cải tạo, không bản án, không thời hạn. Người ra biển vượt biên không hẹn ngày về, phó mặc sinh mạng cho sóng gió và ma quỉ. Đất nước liền một dải mà lắm nhà lại lâm cảnh ly tán. Mà cơi ḷng lại đau nỗi cắt chia mới. Lương thực viện trợ của nước ngoài như hồi chiến tranh không c̣n nữa. Nạn đói hoành hành khắp nước.

Đột ngột lính Pol Pot tràn sang, thảm sát dă man dân lành suốt một dải biên giới Tây Nam. Lại đột ngột súng nổ, lại chết người, lại cháy nhà, suốt toàn tuyến biên giới phía Bắc. Một thằng lính làm thơ là tôi đă cởi áo lính rồi, lại cùng lính ra mặt trận phía Nam, lên mặt trận phía Bắc. Lại đột ngột làm thơ trận mạc: “…Biên ải xưa giặc dă mới tràn vào/ máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới/ gian truân xưa cứ tưởng đă cũ rồi…” (Lên mặt trận ngày đầu - Lạng Sơn 17-2-1979).

Nền kinh tế quốc gia “tuột dốc theo chiều rơi thẳng đứng” (chữ của nhà thơ Tố Hữu, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ). Lại thiếu gạo. Lại đứt bữa. Lại thấy người ăn mày đầy đường. Lại ăn độn đủ cả sắn, ngô, khoai, bo bo, ḿ sợi, ḿ bột, ḿ hột. Nhà tôi  bắt đầu nuôi lợn trên lầu ba… “nâng con lợn lên ngang tầm thời đại!…”

 

Tiềm lực ngủ yên

Thời đó, gia đ́nh tôi ở trong khu tập thể Hội Văn nghệ TP.HCM: …lầu ba, nhà 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa/ tiếng tắc kè nhỏ giọt trong đêm/ tiếng mưa rừng nhỏ giọt trong trí nhớ/ vết đạn trên tường dù trát lại vẫn có màu vôi khác… Nghe tiếng tắc kè kêu trong thành phố, nh́n thấy ánh trăng một đêm cúp điện, lại nhớ về những cánh rừng xưa, những bạn lính cũ.

Lại thương đến nhăo ḷng những ước mơ đơn sơ, mộc mạc một thời. Về với mẹ. Về với vợ con. Về với thanh b́nh vườn ruộng. Về để làm cho dân giàu nước mạnh. Sắp về!... Sắp về!... Con tắc kè trên rừng cây “giơ xương trắng lên trời” do chất độc khai quang hồi đó, nó nói thế. Nó nhắc thế. Nó cứ điệp khúc thế. Cái điệp khúc mơ của người lính trận.

Một cựu binh là tôi lại bắt đầu mơ một điệp khúc mơ đơn sơ mộc mạc khác: “Hăy thức dậy, đất đai/ cho áo em tôi không c̣n vá vai/ cho phần gạo mỗi nhà không c̣n thay bằng ngô, khoai, sắn…”.

Và bắt đầu một nỗi day dứt khác: “…Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non/ châu báu vô biên dưới thềm lục địa/ rừng đại ngàn bạc vàng là thế/ phù sa muôn đời sữa mẹ/ sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể/ c̣n mặt đất hôm nay - em nghĩ thế nào?/ ḷng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?...”.

Đó là nỗi day dứt của một thường dân. Kèm theo là nỗi day dứt của một thường dân làm thơ:… Lúc này ta làm thơ cho nhau/ đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt/ ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ tiềm lực c̣n ngủ yên…

Từng chút, từng chút, ư tứ bài thơ Đánh thức tiềm lực tượng h́nh dần trong tâm trí tôi, đến đầu năm 1980 mới ngọ nguậy nở thành từng con chữ trên giấy. Những ḍng chữ nặng nề và chậm chạp chở lênh đênh tâm sự trầm buồn và chân thật như bọt bèo, như rều rác bập bềnh trôi trên ḍng sông tuổi thơ.

Thêm rồi bớt, viết rồi sửa, đến giữa năm 1982 bài thơ dài ra thành vài trăm ḍng. Tôi tự thấy nó c̣n nôm na lắm, ngôn ngữ thơ chưa được. Nhưng cái được ở đây là tâm t́nh thật của tôi. Thôi, cứ để thế. Tôi dừng bài thơ lại với đoạn kết: Tôi muốn được làm tiếng hát của em/ tiếng trong sáng của nắng và gió/ tiếng dẻo dai đ̣n gánh nghiến trên vai/ tiếng trần trụi lưỡi cuốc/ lang thang khắp đất nước/ hát bài hát đánh thức tiềm lực!

Bài thơ

Đánh thức tiềm lực

                                          “tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế”

Hăy thức dậy, đất đai!

cho áo em tôi không c̣n vá vai

cho phần gạo mỗi nhà không c̣n thay bằng ngô, khoai, sắn

Xin bắt đầu từ cơm no áo ấm

rồi th́ đi xa hơn - đẹp , giàu và sung sướng hơn

Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non

châu báu vô biên dưới thềm lục địa

rừng đại ngàn bạc vàng là thế

phù sa muôn đời như sữa mẹ

sông giàu đằng sông, bể giàu đằng bể

c̣n mặt đất hôm nay th́ em nghĩ thế nào ?

ḷng đất rất giàu, mà mặt đất cứ nghèo sao ?

 

          ***

Lúc này ta làm thơ cho nhau

đưa đẩy mà chi những lời ngọt lạt

ta ca hát quá nhiều về tiềm lực

tiềm lực ngủ yên...

 

          ***

Tôi lớn lên trên bờ băi sông Hồng

trong màu mỡ phù sa máu loăng

giặc giă từ con châu chấu con cào cào

mương máng đê điều ngổn ngang chiến hào

trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc

giọt mồ hôi nào có ǵ to tát

bao nhiêu đời mặn chát các ḍng sông

Bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng

thuyền vỏ trấu mỏng manh ba ch́m bảy nổi

khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi

hột gạo nơn nà hao gầy đi v́ thiên tai

đói thâm niên

đói truyền đời

điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói ...   

 

  * * *

 

Tôi đă qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng

một bên Trường-Sơn-cây-xanh

bên c̣n lại: Trường-Sơn-cát-trắng

đồng bằng h́nh lá lúa gầy nhẳng

cơn băo chưa qua, hạn hán đổ tới rồi

ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa

đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ

cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi

Hạt giống ở đây chết đi sống lại

hạt gạo kết tinh như hạt muối

cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời

 

     * * *

 

Tôi về quê em - châu thổ mới bồi

sông Cửu Long giăn ḿnh ra biển

đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển

cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi

Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt

ḷng c̣n chát chua nào mặn nào phèn

má sung sức và ba cường tráng thế

man mác âu sầu câu hát ru em

Đă qua đi những huyền thoại cũ mèm

những đồng lúa ma không trồng mà gặt

những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt

những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật

miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!

Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi

đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện

con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng

thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển

phà Cần Thơ lê lết người ăn xin

cây đàn hát rong năo nề câu vọng cổ

quán nhậu lai rai - nơi thừa thiếu trốn t́m

 

              * * * 

 

Này, đất nước của ba miền cày ruộng

chưa đủ no cho đều khắp ba miền

ta ca hát quá nhiều về tiềm lực

tiềm lực c̣n ngủ yên...

              * * *

Lúc này tôi làm thơ tặng em

Em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?

Vô dụng lấy đi của cuộc sống những ǵ?

Và trả lại được ǵ cho cuộc sống?

 

Em có nghĩ tôi là con chích choè

ăn và gạt mỏ ?

Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả ?

Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy

múa vơ bán cao trên trang giấy mong manh ?

t́ng nghĩa  nhập nhằng với cái hư danh?

tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc?

 

              * * *

.....

              * * *

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo

quen cái thói hay nói về gian khổ

dễ trạnh ḷng trước những cảnh thương tâm

Làng tôi ngày xưa  toàn nhà tranh vách đất

Băi tha ma không một cái mả xây

Mùa gặt hái rơm nhiều,  thóc ít

Lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày

Thuở tới trường  cũng đầu trần chân đất

chữ viết loằng ngoằng củ sắn, ngọn khoai

thầy giáo giảng rằng nước ta  giàu lắm!...

lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài...

* * *

Lúc này

tôi và em không c̣n là lũ trẻ con nữa

ta biết buồn để biết lạc quan

để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con

(dù sau này dầu mỏ đă phun lên

quặng bôxít cao nguyên đă thành nồi thành soong

thành tàu bay hay tàu vũ trụ

dù sau này có như thế... như thế... đi nữa

chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)

đừng quên đất nước ḿnh nghèo !

Lúc này

tôi và em không c̣n là lũ trẻ con nữa

tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh

sau lưng ta  là kỷ niệm bi tráng

trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh

vẫn trang trọng tấm ḷng trung thực

dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước

dù có sao th́ cũng phải chân thành

 

Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành

để lớn khôn ta hát bài đánh thức

có lẽ nào người lớn cứ ru nhau

ru  tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt

 

              * * *

Tiềm lực c̣n ngủ yên

Trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng

Tiềm lực c̣n ngủ yên

Trong bộ óc mang khối u tự măn

Tiềm lực c̣n ngủ yên

Trong cặp mắt lờ đờ thủy tinh thể

Tiềm lực c̣n ngủ yên

Trong ống mũi kḥ khè không nhận biết mùi thơm

Tiềm lực c̣n ngủ yên

Trong lớp da biếng lười cảm giác

 

Năng động lên nào

từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan

cố nhiên cần lưu ư tính năng động của cái lưỡi

 

              * * *

Cần lưu ư

Lời nói thật thà có thể bị buộc tội

lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương

đạo đức giả có thể thành dịch tả

ḷng tốt lơ ngơ có thể lạc đường

...

Cần lưu ư

Có lắm sự nhân danh lạ lắm

mượn áo thánh thần che lốt ranh ma

nhân danh thiện tâm làm điều ác đức

rao vị nhân sinh để bán món vị ḿnh

Cần lưu ư

Có lắm nghề lạ lắm

nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau

nghề chửi đổng, nghề ngổi lê, nghề vu cáo

nghề ăn cắp ḷng tin và chẹt họng đồng bào

có cả nghề siêu nghề, gọi là nghề không làm ǵ cả

thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề...

 

Bộ sưu  tập những điều ngang trái ấy

Phù chú tà ma ru tiềm lực ngủ mê

 

              * **

Tôi muốn được làm tiếng hát của em

tiếng trong sáng của nắng của gió

tiếng chát chúa của máy và búa

tiếng dẻo dai đ̣n gánh nghiến trên vai

tiếng trần trụi của lưỡi cuốc

lang thang

khắp đất nước

hát bài hát

ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC

                                                    TP Hồ Chí Minh 1980-1982

 

Bài thơ ngủ yên

Bài thơ đi từ trong ḷng ra nên tôi thuộc ḷng nó ngay từ lúc vừa viết vừa sửa, cứ lẩm bẩm một ḿnh như lên cơn thần kinh. Thời đó, thơ như thế là “gai góc” quá, thậm chí  là “phản động”, không những bị cấm in mà c̣n bị cấm đọc. Cái thời hễ có ai phát ngôn khác đi so với công thức phát ngôn chính thống th́ đều bị qui là “phản động”, bị “kiểm thảo”, bị “kỷ luật”...

Bản thân tôi, năm 1973-1974 ở Hà Nội cũng đă từng khốn đốn, lao đao v́ mấy bài thơ “có vấn đề” bị viết bản “tự kiểm” (14 trang giấy khổ lớn, hồi ấy gọi là “giấy năm hào hai”). May thay, cuộc tổng tấn công mùa xuân 1975 bùng nổ, rồi thống nhất đất nước… Sự kiện lịch sử lớn lao xóa phăng đi cuộc sát phạt nhỏ mọn trong làng văn tù túng, lũ chúng tôi bỗng tự nhiên thoát nạn.

Thế mà ngay khi tôi vừa viết xong bài Đánh thức tiềm lực, đột ngột được tin lăo thi sĩ Hoàng Cầm bị tống ngục Hỏa Ḷ chỉ v́ tội tự ư phát tán bản chép tay tập thơ Kinh Bắc (*) của chính ông, trong đó có bài Lá diêu bông  “ám chỉ chủ nghĩa xă hội là không tưởng”. Tôi không khỏi chột dạ. Tự xem xét lại ḿnh, thơ của tôi rơ ràng là có “rất nhiều vấn đề”. Xin nhớ cho, lúc đó là giữa năm 1982.

“… Lời nói thật thà có thể bị xử tội/ lời nịnh hót, dối lừa có thể được tuyên dương/ Có cái miệng làm chức năng cái bẫy/ sau nụ cười là lởm chởm răng cưa/ có cái môi mỏng ráp hơn lá mía/ hôn má bên này bật máu má bên kia/ có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa/ khái niệm bắn đi không biết lối thu về…/ Cần lưu ư có lắm nghề lạ lắm/ nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/ nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp ḷng tin và chẹt họng đồng bào/ có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm ǵ cả/ thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…” (đoạn viết năm 1980).

Viết thế ấy th́ in ở đâu và đọc cho ai? Chỉ dám đọc chơi với vài bạn rượu tri kỷ. Được đoạn nào “rỉ tai” đoạn nấy, từng đoạn, từng đoạn rời rạc. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng an ủi tôi: “Cứ đợi đấy, rồi sẽ đến hồi có người nghe và có người in”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn th́ “triết” hơn: “Sự chân thành tự nó hóa giải bế tắc. Hăy xem lại cái cây ḿnh có thật ngay thẳng không. Cây ngay chẳng sợ chết đứng”. Tôi đă thấy những “cây ngay” mà vẫn bị “chết đứng”, nên ḷng cứ thấp thỏm một nỗi lo ngại không xác định, tự nhủ ḿnh phải giữ ǵn, chớ hớ hênh mà rước vạ.

Đọc thơ "dù có ra sao cũng đành"...

Khốn nỗi, cũng giống như có ghẻ phải găi, có thơ  không thể không đọc. Không được in th́ cứ đọc, mai sau dù có ra sao cũng đành… (một câu hát của Trịnh Công Sơn). Oái oăm thay, lần đầu tiên tôi công bố Đánh thức tiềm lực, đọc liền mạch hoàn chỉnh toàn bài thơ, lại là đọc tặng một người thuộc lớp người “đáng sợ” nhất lúc bấy giờ: ông Sáu Dân, tức Vơ Văn Kiệt - ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy TP.HCM.

Hồi đó, khoảng đầu thu năm 1982, ông Sáu sắp sửa thôi giữ chức bí thư thành ủy để ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước. Ông Nguyễn Quang Sáng chợt nảy sáng kiến họp mặt vài anh em bạn ruột (ngay tại căn hộ lụp xụp của ông trong khu tập thể 194B Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để mời ông Sáu đến… chơi!

"Quí trọng ông Sáu th́ tụi ḿnh mới mời ổng uống ly rượu đế. Trước, để coi ổng có chịu đến chơi không. Sau, để nói thẳng nói thật với ổng chút ít tâm sự của tụi ḿnh về t́nh h́nh thế sự”. Ông Sáng xác định “mục đích và ư nghĩa” cuộc gặp như vậy, rồi gọi điện thoại “thử ” xin nói trực tiếp với ông Sáu. Ông Sáu nhận lời ông Sáng.

Cuộc “chơi” hôm đó thật thoải mái và vui vẻ. “Phe văn nghệ” có nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, nhà thơ Nguyễn Bá (từ Cần Thơ lên) và tôi. “Phe chính trị”  có mỗi ông Sáu.

Với nét cười hồn hậu, cởi mở, ông Sáu nói rất ít, không một lời “huấn thị”, chỉ kể một kỷ niệm vui vui hồi chiến tranh,  rồi chăm chú lắng nghe chúng tôi hát và “tự do ngôn luận”. Nguyễn Quang Sáng nói chuyện viết và lách, viết đă khó, lách c̣n khó hơn. Trịnh Công Sơn vừa hát t́nh ca vừa góp ư với lănh đạo thành phố về vấn đề… ẩm thực. Trần Long Ẩn trổ tài “ca bài ca cà chớn”, những ca khúc lời nhại hài hước diễu cợt cả thời đại. C̣n tôi, không biết nói ǵ hơn là “xin đọc tặng anh Sáu một bài thơ vừa ráo mực, bài Đánh thức tiềm lực...”.

Bản án nhân t́nh

Xin chèn ngang một mẩu chuyện cũ… Tôi chỉ mới được gặp ông Sáu có mỗi một lần, khoảng giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị (do nhà thơ Bảo Định Giang điều hành) chuẩn bị thành lập Hội Nhà văn TP.HCM. Thấy nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu, tôi cũng đọc, bài Ông già Hậu Giang ngang tàng (bản in sau đó đổi ra Ông già Nam bộ), và bài Bán vàng - để “báo cáo” với bí thư thành ủy về đời sống thực của số đông thi sĩ lúc bấy giờ. Khúc dạo đầu c̣n e ngại lắm, nơm nớp lo có người ngăn cản:

“… Tâm hồn ta là một khối vàng ṛng/ đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ/ Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng với trời cao/ để xa cách những ǵ thân thuộc nhất”...

Không bị ai chặn lời, tôi mạnh dạn “làm tới”: “...Cái ác biến h́nh lởn vởn quanh ta/ tai ách đến bất thần không báo trước/ tờ giấy mong manh che chở làm sao được/ một câu thơ chống đỡ mấy mạng người/ Vợ chồng ngủ với nhau đắn đo như vụng trộm/ không cái sợ nào bằng cái sợ sinh con/ hạnh phúc lớn ṿng tay ôm không xuể...”.

Vẫn không thấy ai chặn lời. Pḥng họp lặng ngắt. Tôi b́nh tâm kết thúc bài thơ:

Th́ bán bớt đi một ít vàng ṛng / để sống được qua ngày gian khổ đă/ phải sống được qua cái thời nghiệt ngă/ để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời!

Sau cuộc họp đó tôi không những không bị “búa” như dự đoán của tôi và của nhiều người khác, mà lạ thay c̣n được người thư kư của bí thư thành ủy t́m gặp: “Anh Sáu nhắn cậu chép tặng anh ấy bài Bán vàng vàbài Ông già Hậu Giang để làm kỷ niệm t́nh cảm”. Tôi hơi ngại, hỏi lại  Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu cần văn bản chứng cớ để xử lư?...”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng chỉ cần ra lệnh”. Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận dưới tên mỗi bài: Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỷ niệm t́nh cảm.

Ít lâu sau, tại cuộc gặp gỡ nhân dịp đại hội thành lập các hội nghệ thuật chuyên ngành của thành phố, với tư cách bí thư thành ủy, ông Sáu nói chuyện với đông đảo văn nghệ sĩ. Trong bài nói không dài đó của ông Sáu Dân có một đoạn tôi không bao giờ quên: “Vừa qua, tôi đă nghe và đă đọc bài thơ Bán vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo tôi, đó là một bản án nhân t́nh đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự thật. Chúng ta cần chân thành nh́n nhận sự thật để cùng nhau vươn lên, vượt qua giai đoạn khó khăn. Muốn vượt lên th́ phải có niềm tin. Mà cốt lơi của niềm tin là tin ở con người...”.

Lần đầu tiên tôi trực tiếp nghe một bài huấn thị chính trị như thế, trực tiếp thấy một nhà lănh đạo chính trị ứng xử như thế. Đó là khoảng giữa năm 1981. Quả là bất ngờ. Tự nhiên tôi xúc động, v́ một cái ǵ đó mà tôi chưa biết gọi nó là cái ǵ, h́nh như nó chỉ là cái lẽ nhân t́nh b́nh thường mà sao ta ít thấy ở những vị quan lớn. Và, tự nhiên tôi cảm thấy tin ông…

Đánh thức...

Lúc này, với tất cả nỗi niềm “tin ở con người”, tôi lại trang trọng kính tặng ông Sáu một “rừng gai góc” mới. Tôi đứng ngay ngắn, nh́n thẳng ông Sáu mà đọc, thấy ông không cười cười nữa, hơi cúi đầu đăm chiêu với gương mặt b́nh thản không phơi lộ cảm xúc. Tôi cũng b́nh tâm làm phận sự của ḿnh:

“…Xưa mẹ ru cho ta ngủ yên lành/ để khôn lớn ta hát bài đánh thức/ có lẽ nào người lớn cứ ru nhau/ ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt…/ Tiềm lực c̣n ngủ yên trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng/ Tiềm lực ngủ yên trong bộ óc mang khối u tự măn.

Không ngắc ngứ, không ngừng nghỉ, tôi kéo một lèo khoảng 10 phút cho đến hết bài thơ. Thấy ai nấy ngồi lặng. Ông Sáu cũng im lặng chốc lát, mới chậm răi: “Nặng lắm. Nhưng chịu được”. H́nh như ông vừa trải qua một cuộc tra tấn. Rồi ông tiếp: “Nếu kể về cái tiêu cực  th́ tôi kể cả ngày không hết. C̣n nếu kể về cái tích cực th́ tôi kể cả tuần cũng không hết. Nhưng vấn đề ở đây không phải là chống tiêu cực hay biểu dương tích cực. Vấn đề ở đây là  con người, là văn hóa. Con người có thức dậy th́ đất đai mới thức dậy được...”.

Nghe ông Sáu, tôi thở phào nhẹ nhơm, trút bỏ nỗi lo ngại không xác định lâu nay vốn nặng trĩu ḷng. Th́ ra những câu thơ “khó chịu” thế kia không phải chờ đến mai sau mới có người lắng nghe và chia sẻ. Những người “chịu nghe” và “chịu được” loại thơ “nặng lắm” ấy đă hiện diện quanh tôi ngay từ “thời khó thở” đó.

Tiềm lực thức giấc...

Sau cuộc đọc thơ đó, tôi bèn đem Đánh thức tiềm lực đi đọc và “phát tán” ở nhiều nơi. Có nơi “hoan hô nhiệt liệt”, mời đọc, cho phát hành bài thơ bằng băng ghi âm hoặc bản in rônêô. Lại có nơi cấm đọc, cấm lưu hành cũng bài thơ đó. Nó xuất hiện muộn hơn trên mặt báo và sách. Lần đầu tiên Đánh thức tiềm lực được in là trên tờ Văn Nghệ Đồng Nai do nhà thơ Xuân Sách làm tổng biên tập, số tháng 12-1984. Nhưng tờ báo văn tỉnh lẻ này chỉ ra mỗi tháng một kỳ, mỗi kỳ mấy trăm bản, loanh quanh trong “xóm” Đồng Nai, ít ai biết đến.

Măi cuối năm 1986, sau nghị quyết “Đổi mới” của Đại hội VI  Đảng Cộng sản VN – được coi là đại hội  “mở cửa” và “cởi trói” - bài Đánh thức tiềm lực mới được đăng nguyên văn trên báo Tuổi Trẻ, được phát hành khắp trong nước và ngoài nước. Năm 1987, Đánh thức tiềm lực có mặt đàng hoàng trong tập thơ Mẹ và em cùng với bài viết “Đi t́m tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy” của Nguyễn Quang Sáng (Nhà xuất bản Thanh Hóa).

Và từ đó nó đă được chọn vào nhiều tuyển tập. Có một ḍng đề từ ngay dưới tên bài thơ, tôi viết thêm sau cuộc đọc thơ vừa kể, để ghi nhớ một kỷ niệm sâu sắc thời kỳ trước đổi mới: “tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế”. Chính nhờ có những người-đánh-thức-tiềm-lực không biết mệt mỏi, những người dám “xé rào cơ chế”, dám “chịu nghe” những ǵ khác đi, thậm chí là ngược lại cái công thức phát ngôn chính thống, dám hành động vừa quyết đoán vừa nhân t́nh… như ông Sáu Dân, chúng ta mới có được một con đường đổi mới với những ngày “dễ thở hơn”  như hôm nay.

------------------

(*) Kinh Bắc đă được NXB Văn Học xuất bản năm 1994.

(**) intertitle do Tuổi Trẻ Online đặt