Valera stage 2012 été :

Luận lư Hiện Tại Sinh Động

 

Trần Đức Thảo

1993

 

Nguyễn Hoài Vân

Dịch từ Pháp Văn

 

Dẫn nhập :

 

Bạn đang có trước mặt di chúc triết học của Trần Đức Thảo. Trong những tháng cuối cùng của cuộc đời ông ở Paris, một người bạn tôi là Phan Tấn Phùng hàng ngày lui tới với ông và được giao cho đánh máy tài liệu « La Logique du Présent Vivant » này. Ít lâu sau, Trần Đức Thảo mệnh chung. Bạn Phùng cũng từ giă đời thường, xuất gia đi tu. Bạn đưa cho tôi biên khảo quư giá này. Tôi lập tức có ư định dịch ra tiếng Việt, nhưng trải qua nhiều năm, măi đến bây giờ mới thực hiện được.

 

---0---

 

Có lẽ Trần Đức Thảo là người trí thức đúng nghĩa hiếm có của Việt Nam. Ông đă cống hiến cả cuộc đời ḿnh cho Triết Học, mặc dù những quan tâm của ông rất ít được sự hưởng ứng của xă hội chung quanh. Người ta thường coi sự hiểu biết mênh mông của ông như « không dùng làm ǵ ». Ông sống trong nghèo khổ, để măi đến cuối cuộc đời mới có điều kiện trở lại đất Pháp, nơi mà, vào một thuở xa xưa, ông từng được ngưỡng mộ như một thiên tài triết học, với tương lai đầy hứa hẹn. Tiếc thay, thời huy hoàng ấy đă quá ngắn ngủi để người ta c̣n nhớ đến ông, khi ông quay lại Paris, lúc tuổi già ...

 

---0---

 

Triết lư của Trần Đức Thảo không dễ hiểu. Đề tài được bàn đến trong bài này càng không dễ bước vào. Người đọc không chuyên môn cần trang bị cho ḿnh một chút kiên nhẫn, và đừng ngần ngại tra cứu thêm bên ngoài, cũng như đọc sang phần chú thích, với những tóm tắt về một số khái niệm mà Trần Đức Thảo chỉ gợi qua, mặc dù chúng không thể thiếu cho sự thông hiểu đề tài. Ngoài ra, khi cần thiết, người dịch đă mạn phép lồng vào giữa các câu văn một vài giải thích ngắn , trong ngoặc đơn, với  kư hiệu « NHV ».

 

Độc giả đọc được tiếng Pháp có thể t́m xem nguyên bản trên trang nhà của người dịch : http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=707&kind=0 (xin chép dán ḍng nối này, sẽ chính xác hơn).

 

---0---

 

Trong phần đầu của bài này, trước khi thực sự đi vào chủ đề « Hiện Tại Sinh Động », Trần Đức Thảo đă vẽ lên một phương pháp suy luận mới, kết hợp hai phạm trù vốn được coi như đối nghịch nhau của luận lư học, là luận lư h́nh thức : « A là A HAY không là A », và luận lư biện chứng : « A là A không là A, v́ A chuyển biến ». Luận lư h́nh thức hoàn toàn phù hợp với suy nghĩ và cảm nhận thông thường, nên có tính cách đương nhiên. Luận lư biện chứng th́ cần sự « chuyển biến » để biện minh cho nó. Chuyển biến lại đ̣i hỏi thời gian. V́ thế thời gian là vấn đề liền được đặt ra sau đó.

 

---0---

 

Suốt nhiều thế hệ, thời gian là vốn một trăn trở của triết học. Thánh Augustin từng nói : “Thời gian là ǵ ? Nếu không ai hỏi đến, th́ tôi biết, nhưng nếu phải cắt nghĩa nó, th́ tôi không c̣n biết nữa”. Nếu sống ở thế kỷ 20, Augustin sẽ được nghe Merleau Ponty trả lời : “Thời gian không phải là một đối tượng của hiểu biết, mà là một chiều kích của hiện hữu” (Phénoménologie de la Perception). Đối với Platon, th́ : « thời gian là h́nh ảnh di động của vĩnh hằng bất động ». Ngôn ngữ thông thường cho là “thời gian trôi”, nhưng nó có “trôi” thật không, hay chỉ sự vật “trôi” trong nó ?

 

Trần Đức Thảo th́ chọn khởi đi từ quan điểm của Aristote : “thời gian là con số của sự chuyển động từ trước đến sau”. Nhưng chỉ để lập tức vạch ra chỗ bế tắc của quan điểm này : nó không thể h́nh dung được sự chuyển động. Thật vậy thời gian của Aristote là một chuỗi giây lát bất động nối tiếp nhau, mỗi giây lát phân định một sự “trước - sau”. Sự chuyển động được đặt vào một chuỗi giây lát bất động như thế, liền trở thành một chuỗi vị thế, cũng tự nó bất động. Thế th́ làm sao cắt nghĩa được những bước chuyển từ vị thế bất động này sang vị thế bất động khác ? Làm sao h́nh dung được một mũi tên đang bay, nếu nó chỉ liên tục nằm ở những vị thế bất động nối tiếp nhau ?

 

Lư thuyết “Hiện Tại Sinh Động” được đề ra như một giải đáp cho bài toán ấy. Trần Đức Thảo không quan niệm một Hiện Tại trừu tượng, biến vào quá khứ ngay vào lúc nó nảy sinh, tức hiện hữu để không c̣n hiện hữu, nằm giữa một tương lai không hiện hữu v́ chưa xảy đến, và một quá khứ cũng không hiện hữu v́ đă qua đi. Hiện Tại ở đây được gọi là Sinh Động, v́ nó hoàn toàn gắn liền với một hiện hữu cụ thể. Người ta không phải băn khoăn về sự hiện hữu của Hiện Tại ấy. Nó hiện hữu hay không, không c̣n là vấn đề. Có một hiện hữu cụ thể ở trong nó, thuộc về nó, “hội nhập” nó. Quan niệm “hội nhập thời gian” được hiểu theo nghĩa ấy, v́, hội nhập “Hiện Tại sinh động” chính là hội nhập vào “ḍng thời gian”.

 

Thời gian, được hiện hữu “hội nhập” vào, liền tự nó mang một động lực, để trong mỗi giây lát, đă sẵn có một sự lôi cuốn “sinh động”, hút nó vào giây lát tiếp theo. Đó là “áp lực hướng tiền”. Đồng thời, sự “hội nhập” của một hiện hữu vào mỗi giây lát cũng chính là sự lắng đọng của nó trong giây lát ấy. Mọi giây lát đều lắng đọng trong giây lát kế tiếp, nên trong mỗi giây lát có sự “tồn đọng” của toàn thể quá khứ. Tồn đọng và hướng tiền là cặp mâu thuẫn cơ bản của sự hội nhập thời gian.

 

Công tŕnh kết hợp luận lư h́nh thức và luận lư biện chứng cho phép h́nh dung một hiện hữu bao gồm cặp mâu thuẫn ấy. Ở mỗi giây lát, một mặt nó “là” nó, với tất cả những tồn đọng của quá khứ trong nó, đồng thời không c̣n là nó, v́ áp lực hướng tiền trong nó, bắt nó trở thành cái khác. Trở thành cái khác trong giây lát tiếp theo, nhưng lại vẫn là nó, v́ các giây lát trước (với tất những ǵ đă “là” nó),  đều tuần tự tồn đọng trong nó. Nói cách khác, sự thống nhất của cặp mâu thuẫn “tồn đọng” và “hướng tiền” mô tả hiện trạng của hiện hữu, cho thấy “nó là nó”, tức vừa mang sự tồn đọng của quá khứ, vừa hàm chứa áp lực hướng tiền đẩy đến tương lai. Sự đối kháng giữa cặp mâu thuẫn ấy th́ cho ra sự triệt tiêu của cái hiện hữu kia : nó biến đi, không c̣n là nó, để bước vào tương lai. Trần Đức Thảo khai triển rất kỹ vấn đề này.

 

Thế nhưng, hiện hữu mà ta đang nói, là ǵ trong cụ thể ? Nó có thể là bạn, là tôi, là một con amibe, con sứa, con mực, con mèo, một hài nhi, như Trần Đức Thảo sẽ lần lượt mô tả, đồng thời cũng có thể là một đoàn thể, một xă hội, một khu rừng, toàn bộ thiên nhiên, hay đơn thuần là một ḥn sỏi. Sự chuyển biến sẽ rất chậm trong trường hợp một ḥn sỏi, và nhanh hơn trong trường hợp con amibe, nhưng luận lư trên luôn áp dụng được. Đó chính là “biện chứng tổng quát” của sự “hội nhập thời gian”, đề tài của phần II.

 

 

---0---

 

Vấn đề bây giờ là những hiện hữu lồng trong hiện hữu khác. Như những cá nhân trong một xă hội, tạng phủ, cơ quan, trong một cơ thể, những tế bào trong tạng phủ, cơ quan ấy, v.v... Tất cả đều là những hiện hữu chuyển trôi trong ḍng thời gian. Chúng đều có sự vận động riêng, đồng thời với những liên hệ phức tạp giữa chúng với nhau, và với các hiện hữu bao trùm chúng. Trong tất cả sự chuyển biến và không ngừng tiến hóa trên nhiều tầng, nhiều lớp, phân thành nhiều hệ thống, tiểu hệ thống, liên hệ chằng chịt với nhau như thế, làm sao nhận ra được Cá Tính của mỗi hiện hữu, và  quan niệm sự chuyển biến của nó trong ḍng thời gian ? Đó là đề tài của phần III.

 

Trần Đức Thảo nhận xét là truyền thống khoa học nh́n cá thể như một tập hợp của những tương quan giữa cá thể ấy với môi trường. Người ta mô tả một con amibe với toàn bộ cấu trúc thấy được của nó trong một điều kiện nhất định của môi trường quanh nó, rồi mô tả những thay đổi của cấu trúc này, khi thêm hoặc bớt một vài yếu tố trong môi trường ấy (vài hóa chất, bạch huyết cầu, vi khuẩn khác v.v...). Vào mỗi giây lát, Amibe được coi như trung tâm của những tương tác với môi trường, hay, một cách chính xác hơn, như một giao điểm của các tương tác ấy. Chúng ta gặp lại vấn đề đă được đặt ra cho giây lát, khi nh́n giây lát như một “điểm thời gian”. Làm sao quan niệm được sự chuyển hóa của amibe trong ḍng thời gian, nếu trong mỗi giây lát, cá thể này chỉ được nh́n như một điểm tự nó bất động ? Làm thế nào để nối liền con bướm với con sâu, phôi bào với trẻ nhỏ, bé sơ sinh với cụ già, vài anh dân quân nơi thượng du hẻo lánh, với một “quân đội nhân dân” hùng cường, vài ngôi làng họp nhau chống lại một lănh chúa, với Liên bang Thụy Sĩ ngày nay, một sinh vật đơn bào với con người, một điểm cực nóng có tỷ trọng cực cao (lúc Big Bang) với vũ trụ hiện thấy. Người ta có thể mô tả vô số những trạng thái trung gian, một cách tỉ mỉ nhất có thể được, nhưng các trạng thái trung gian ấy vẫn chỉ là những “điểm”, như những tấm h́nh chụp mũi tên đang bay, không cho phép quan niệm được một cách thuần lư, sự vận động, chuyển hóa, từ điểm này sang điểm khác. Lư thuyết Hiện tại Sinh Động cho phép điều ấy, bằng một sự hiểu biết tổng quát, được gọi là sự “hiểu biết cảm thông”, không cần dùng đến những mô tả, những phân giải, vô cùng tận.

 

Để vạch rơ điều này, Trần Đức Thảo tự giới hạn trong lĩnh vực sinh học để mô tả sự chuyển hóa của một sinh vật. Một mặt nó hấp thụ những chất nuôi dưỡng từ môi trường chung quanh, để biến chúng thành chính nó, thêm vào cho cái cấu trúc mà nó đă sẵn có. Đó là chức năng tồn đọng, cho phép “nó là nó” trong ḍng thời gian. Đồng thời nó đào thải ra ngoài những chất liệu vốn thuộc về nó, cũng như một sự chuyển biến, v́ khi ấy “nó không c̣n là nó” của giây lát trước, mà trở thành một cá thể mới. Trần Đức Thảo áp dụng tổng hợp luận lư h́nh thức và biện chứng, tiền đề của lư thuyết Hiện Tại Sinh Động, để mô tả rất tỉ mỉ sự “chuyển động bao hàm đối kháng” này.

 

---0---

 

Ở trên, chúng ta đă đề cập đến những cá thể kết hợp nhiều cá thể khác, như cơ thể con người kết hợp  hàng chục ngàn tỷ tế bào, hay một xă hội kết hợp nhiều triệu thành viên. Phần IV của bài này khảo sát vào tận bản tính của sự kết hợp ấy.

 

Vẫn giữ thí dụ sinh học, Trần Đức Thảo chuyển từ sinh vật đơn bào đến những loài đa bào đơn giản như loài “Bọt Biển” và loài “Ruột Khoang” (như con sứa). Chúng ta đều biết sự kết hợp trong một sinh vật đa bào không chỉ đơn thuần là ghép nối các tế bào với nhau. Có những khía cạnh khác cần được nhận  thức như khi sinh vật ấy thu nạp những chất nuôi dưỡng từ môi trường vào trong thân thể, th́ những thành tố ấy liền kết hợp với chính nó, để trở thành một phần của nó (đă nói ở trên). Bọt Biển lấy các chất nuôi dưỡng vào một cách thụ động, bằng sự thâm nhập qua cơ thể. Loài Ruột Khoang th́ chủ động thu bắt các thành tố nằm giữa các “chân - tua” của nó. Qua việc thu bắt ấy, cùng với sự tống xuất các cặn bă và đẩy lùi các vật nguy hại, Trần Đức Thảo nhận ra sự h́nh thành của hành vi đầu tiên trong lịch sử các sinh vật. Đó là sự co thắt. Hành vi ấy có được là nhờ sự “chuyên môn hóa” của một số tế bào của hệ “thần kinh - cơ”, với hai chức năng đối nghịch kết hợp với nhau, là : trương lực và từng kỳ. Sự thống nhất của hai yếu tố đối nghịch này cho ra hiện trạng của sinh vật, tức trạng thái co thắt. Sự đối kháng giữa chúng,  triệt tiêu hiện trạng ấy, và cho ra trạng thái thư giăn. Kết hợp nh́n dưới khía cạnh này, chính là tương quan biện chứng giữa những thành phần có chức năng đối nghịch, hay nói rộng ra khác biệt nhau, trong một tổng thể.

 

Rồi TĐT nhảy một bước dài trong ḍng tiến hóa để mô ta một bước nhảy khác, bước nhảy của mèo vồ chuột. Các diễn viên của vở kịch vẫn không thay đổi. Hệ thống thần kinh và cơ bắp được phân thành hai loại, trương lực và từng kỳ, vẫn đóng vai tṛ then chốt. Một yếu tố có vẻ mới mẻ, được phát hiện. Đó là h́nh ảnh của con chuột, từ trong hệ thần kinh của mèo, được mèo phóng chiếu ra ngoài thân thể nó, đến đúng vị trí mà nó sẽ vồ chuột. Đó là một h́nh ảnh “tiềm năng”, v́ không có thật, và “mang xu hướng”, v́ đă chứa sẵn trong nó, những chỉ đạo cho các tư thế ŕnh chuột, và động tác vồ lấy chuột. TĐT cho thấy là thật ra, « h́nh ảnh tiềm năng mang xu hướng » đă hiện hữu từ loài Ruột Khoang, cùng với sự phân chia của hệ “thần kinh – cơ” thành hai loại trương lực và từng kỳ. Sự phóng chiếu h́nh ảnh này cho phép con vật tác động vào một “vùng phụ cận”, bên ngoài nó, nhưng có thể được nó “trưng dụng”.

 

Tóm lại, mâu thuẫn “trương lực - từng kỳ” chính là khởi điểm trên đó Trần Đức Thảo áp dụng Lư Thuyết Hiện Tại Sinh Động vào tính kết hợp của các động vật, kể từ loài Ruột Khoang, để đem lại một cái nh́n nhất quán về hành vi của chúng, cho đến hành vi có ư thức nơi con người.

 

Ông thêm vào nhận xét về Tṛ Chơi, để cho thấy một khía cạnh quan trọng của lịch sử tiến hóa. Qua  tṛ chơi, con vật dùng đến những sự vật trung gian để tăng cường hiệu năng tác động vào môi trường quanh ḿnh. Với loài người, trung gian ấy sẽ trở thành dụng cụ lấy từ thiên nhiên một cách trực tiếp, trước khi được chế biến, bằng thủ công, rồi kỹ nghệ.

 

Đến đây, tôi xin kính cẩn nhường lời cho Trần Đức Thảo, và hẹn gặp lại bạn ở “Lời Cuối”.

 

-----0-----

 

 

Dàn bài :

 

I)                  V́ một Luận lư H́nh Thức và Biện Chứng

II)               Biện Chứng Luận Lư như biện chứng tổng quát của Hội Nhập Thời Gian

I)                  Lư Thuyết Hiện Tại Sinh Động như Lư Thuyết của Cá Tính

III)            Lư Thuyết Hiện Tại Sinh Động như Lư Tuyết của Tính Kết Hợp

 

§§§§§§§§§

 

I) V́ một Luận lư H́nh Thức và Biện Chứng

 

Các nhà phát minh ra biện chứng pháp đă xây dựng học thuyết của họ để chống lại Luận Lư H́nh Thức. Điều này đem lại cảm tưởng rằng những nguyên lư của biện chứng pháp đi ngược lại với những thói quen của suy tư thông thường, được áp dụng trong luận lư h́nh thức. Kết quả là thành kiến cho rằng biện chứng pháp tối tăm, khó hiểu, khiến phương pháp lư luận này chậm phổ biến và không phát huy được đầy đủ những lợi ích mà nó có thể đem lại.

 

Luận Lư H́nh Thức tóm tắt các quy luật của tư duy thông thường trong ba nguyên lư nền tảng :

 

I-                   Nguyên lư đồng nhất : cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu

II-                Nguyên lư không mâu thuẫn : cái ǵ không hiện hữu, th́ không hiện hữu. Hay nói cách khác : A không thể vừa là A vừa là « không A ».

III-             Nguyên lư triệt tam :  một sự vật chỉ c̣ thể là A hoặc « không A », không có giải pháp thứ ba.

 

Luận Lư Biện Chứng chống lại những khẳng định có vẻ như đương nhiên ấy, nhân danh sự chuyển động và trở thành. Nó đề ra ba nguyên lư ngược lại :

 

I)                   Mọi sự vật hiện hữu, đồng thời không hiện hữu, v́ nó lưu chuyển

II)                Điều không hiện hữu, cũng hiện hữu, v́ quá khứ không c̣n hiện hữu, thành tựu  trong hiện trạng của lúc này, và tương lai chưa hiện hữu, đă bắt đầu hiện lên,  cũng từ cái hiện trạng lúc này ấy.

III)             Mọi sự vật đều là chính nó và là cái khác, v́ nó tự biểu hiện như một cái khác trong sự xuất hiện của tương lai đă bắt đầu trong lúc này.

 

Nói tóm lại, Luận Lư H́nh Thức trung thành với tri giác thông thường, coi giây lát hiện tại như tự nó bất động, khiến cho sự chuyển động chỉ có thể thực hiện được qua những bước chuyển từ một giây lát sang giây lát kế tiếp. Điều này cho ra những nghịch lư như Achille không thể qua mặt con rùa, hay mũi tên bay, nhưng bất động trong mỗi giây lát. Thời điểm Achille qua mặt con rùa có thể được tính ra một cách dễ dàng, cũng như đường bay của mũi tên. Nhưng (với cách nh́n giây lát  tự nó bất động – NHV) người ta khó quan niệm được những chuyển động ấy như đang diễn ra.

 

Lư do v́ các nguyên lư của Luận Lư H́nh Thức giả định sự vật tự nó bất động trong mỗi giây lát, biệt lập với sự chuyển động từ giây lát này sang giây lát sau đó. V́ thế, khi thời gian chỉ là một chuỗi giây lát tự nó bất động, làm sao h́nh dung được các sự bất động ấy có thể chuyển lưu từ cái này sang cái khác ?

 

Trước quan niệm siêu h́nh rất khó hiểu ấy về sự vật, trong đó sự chuyển động của chúng bị coi như một chuỗi trạng thái bất động, biện chứng pháp trả lời rằng một giây lát có thể chuyển sang giây lát sau đó, v́ sự vận động và khuynh hướng chuyển biến đă có sẵn trong nó. Hiện tại chính là sự chuyển biến từ quá khứ đến tương lai, một sự chuyển biến liên tục, trong mỗi giây lát, với quá khứ lắng đọng trong nó, và với tương lai nẩy mầm từ nó. Quá khứ gặp gỡ tương lai trong hiện tại, như giây lát của sự chuyển biến, và sự chuyển biến của giây lát.

 

Chính trong động lực của sự trở thành nơi mỗi giây lát, mà người ta có thể diễn đạt những nguyên lư truyền thống của biện chứng pháp :

 

« Mọi sự vật vừa hiện hữu, vừa không hiện hữu – hay : hiện hữu là hư vô. Điều không hiện hữu, lại hiện hữu – hay : hư vô là hiện hữu. Mọi sự vật đều là chính nó và là cái khác ».

 

Điều quan trọng cần vạch rơ là ư nghĩa thực sự của những công thức có bề ngoài nghịch lư này. Không những chúng không xóa bỏ, mà ngược lại, dựa trên những nguyên lư của Luận Lư H́nh Thức như nền tảng xuất phát ra chúng.

 

Thật vậy, nói : « điều ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu », chính là v́ giây phút hiện tại thực sự hiện hữu, trong lúc này. Nhưng khi người ta thêm rằng : cùng lúc,  nó biến mất, th́ điều ấy mang ư nghĩa : « nó hiện hữu, và không hiện hữu ». Hai phát biểu này không mâu thuẫn, mà trong căn bản, bổ túc lẫn nhau, v́ : « giây phút hiện tại hiện hữu, đồng thời cũng biến mất ».

 

Tuy nhiên sự biến mất ấy không phải là « không hiện hữu », mà là chuyển động từ hiện hữu sang không hiện hữu, trong ư nghĩa « không c̣n hiện hữu ». Để nhấn mạnh sự chuyển biến bên trong  hiện hữu như thế, cần nói rơ là :

 

1) Cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu

Đồng thời, nó hiện hữu và không hiện hữu, với ư nghĩa nó không c̣n hiện hữu

 

Công thức của Heraclite, được Hegel chữa lại : « Mọi sự vật hiện hữu và cũng không hiện hữu », quá ngắn gọn, đưa đến một sự ngộ nhận đáng tiếc, v́ nó gợi lên ư tưởng rằng sự hiện hữu tự nó không hiện hữu, như một thách thức đối với lư lẽ thông thường.

 

Một thi sĩ, trong ư thơ lai láng, có thể kêu lên : « giây phút tôi đang tự t́nh, đă biến tan !». Nhưng triết gia cần phải chính xác hơn.

 

Sự hiện hữu của giây lát là một sự thực : « cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu ». Đồng thời nó hàm chứa trong hiện hữu của nó sự chuyển động đưa nó đến tan biến, tức là : « đồng thời nó hiện hữu và không hiện hữu, trong ư nghĩa nó không c̣n hiện hữu ». Tức là không phải nó biến mất, như công thức mơ hồ của Heraclite và Hegel có thể gợi ư như một sự phóng đại đầy thi vị.

 

V́ thế, cần phân biệt sự hiện hữu với cái giây lát làm nền tảng cho nó : « nó hiện hữu », nhưng v́ sự chuyển động sang tan biến thuộc về bản chất của nó, cho nên : « đồng thời nó hiện hữu và không hiện hữu, trong ư nghĩa nó không c̣n hiện hữu ».

 

Tương tự như vậy, « hư vô như hiện hữu » được Hegel tŕnh bày trong đoạn đầu của tác phẩm Luận Lư Học của ông, mang ư nghĩa : cái quá khứ không c̣n nữa, nhưng trôi đến và thành tựu trong những lắng đọng vào giây lát hiện tại. Nơi giây lát hiện tại, chính trong sự chuyển động đưa nó đến tan biến (hư vô), mà cái quá khứ ấy vẫn c̣n hiện hữu.

 

Cũng như thế, tương lai, tuy chưa hiện hữu (hư vô), nhưng hiện lên trong hiện tại như một điều sắp xảy ra, như thể nó đă hiện hữu.

 

Sự vận động bao gồm hai mặt ấy của Hiện Tại vừa dẫn nó đến tan biến trong khi nó vẫn c̣n hiện hữu, đồng thời đem nó tiếp cận với tương lai sắp hiện lên đến trong nó, như thể tương lai ấy đă hiện hữu. Hai động lực này, một mặt biến mất và mặt khác hiện lên trong giây lát hiện tại, khiến hiện tại trở thành giây lát của sự chuyển biến, và sự chuyển biến của giây lát. Hai sắc thái : vẫn c̣n hiện hữu, và sẽ hiện hữu, của giây lát hiện tại, không phản lại nguyên lư « không mâu thuẫn » của luận lư h́nh thức, v́ nguyên lư này chỉ áp dụng trong cái giây lát được chỉ định một cách trừu tượng, trên căn bản tự nó bất động.

 

Như thế, nguyên lư thứ hai của Luận Lư Biện Chứng cần khởi đi từ nguyên lư thứ hai của Luận Lư H́nh Thức, tức nguyên lư « không mâu thuẫn ». Nguyên lư này, cũng như toàn thể Luận Lư H́nh Thức, luôn giữ nguyên giá trị trong  mọi suy tư thuần lư, kể cả trong biện chứng pháp :

 

2) Điều ǵ không hiện hữu th́ không hiện hữu. A không thể vừa là A, vừa là không A. Nhưng trong thực tế cụ thể của giây lát hiện tại, như giây lát của chuyển biến và chuyển biến của giây lát, sự vận động bao gồm hai mặt, hiện lên và tan biến, thể hiện qua hai sắc thái : đưa đến tan biến và đưa đến xuất hiện. Nghĩa là, cái không c̣n hiện hữu nữa, vẫn hiện hữu, v́ sự lắng đọng của những thành tố của nó trong giây lát hiện tại. Và cái chưa hiện hữu, đă bắt đầu hiện hữu, bởi sự xuất hiện của nó, cũng trong giây lát hiện tại.

 

Sau hết, nguyên lư « một sự vật chỉ có thể là A hoặc không A, không có giải pháp thứ ba » được xác nhận nếu giây lát được quan niệm một cách trừu tượng như bất động. Nhưng đồng thời cũng phải thêm rằng, sự vật ấy, lồng trong cùng một giây lát, khi được nh́n như giây lát của chuyển biến, và chuyển biến của giây lát, th́ lại « vừa là chính nó, vừa là cái khác ».

 

3) Một sự vật là A, hay là không A, không có giải pháp thứ ba, trong cái giây lát được quan niệm trong nền tảng của nó, một cách trừu tượng,  như bất động.

Đồng thời, cũng sự vật ấy, trong cùng một giây lát, nhưng được nh́n như giây lát của chuyển biến, và chuyển biến của giây lát, th́ lại vừa là chính nó, vừa là cái khác.

 

Tóm lại, những nguyên lư của Luận Lư Biện Chứng, kế thừa từ Heraclite và Hegel dưới một dạng  thức khó hiểu, có thể được nắm bắt dễ dàng hơn nếu sử dụng một cách nói luôn lấy những nguyên lư của Luận Lư H́nh Thức làm tiền đề.

 

Trên căn bản của một Luận Lư vừa H́nh Thức vừa Biện Chứng như thế, chúng ta có thể quan niệm thế giới như một tập hợp vô tận của những h́nh thái lịch sử.

 

Một h́nh thái lịch sử là một tập hợp trong thời gian và không gian của những thực thể tương tác với nhau trong vô số giây lát không ngừng chuyển động và tự trở thành. Các giây lát ấy cũng đồng thời tương liên qua những giai tầng bao gồm những hệ thống chủ đạo, và những yếu tố hay tiểu hệ thống, cùng tham gia vào một sự tiến hóa được phân phối và cấu thành trong những giai tầng vừa nói, tùy theo các tương quan biện chứng bên trong và bên ngoài chúng.

 

Sự khảo sát một h́nh thái lịch sử được khai triển trước tiên trong phạm vi của Luận Lư H́nh Thức bằng cách truy t́m những quy luật của sự chuyển biến từ một giây lát sang giây lát kế tiếp. Kế đến, kể từ một giới hạn nào đó, như khi bước sang các lănh vực khoa học xă hội và nhân văn, th́ sự khảo sát buộc phải vượt qua phạm vi của Luận Lư H́nh Thức, để tiến vào lănh vực tương quan biện chứng, nhưng vẫn dựa trên hệ thống quy luật đă được công nhận (bởi Luận Lư H́nh Thức - NHV).

 

Việc khảo sát các quy luật biện chứng dựa trên Luận Lư H́nh Thức và Biện Chứng, nhắm vào hai mặt của sự chuyển biến tự thân của mỗi giây lát trong hiện tại, với quá khứ lắng đọng trong nó, và áp lực đẩy nó vào tương lai, khiến giây lát hiện tại trở thành giây lát kế tiếp.

 

Hệ thống quy luật (của Luận Lư H́nh Thức - NHV) cho ra trí năng, để dẫn dắt các ứng dụng kỹ thuật trong thế giới khách quan.

 

Vạch rơ các quy luật biện chứng trong các h́nh thái chuyển biến song phương, th́ mang một vai tṛ chỉ đạo cho việc khảo cứu - trong những trường hợp nằm ngoài ranh giới của khoa học khách quan (tức khi bước sang khoa học xă hội, nhân văn - NHV) - và đồng thời cho phép hiểu biết thế giới khách quan cũng như chủ quan một cách thuần lư, mở đường cho việc giải đáp những vấn đề của liên hệ, của đạo đức và thẩm mỹ.

 

17-9-1992

 

 

§§§§§§§§§§§§§§§§§

 

 

II) Biện Chứng Luận Lư như biện chứng tổng quát của sự Hội Nhập  Thời Gian

 

Aristote đă định nghĩa thời gian như con số của sự chuyển động từ trước đến sau. Tức là cái giây lát (1) thể hiện bởi con số này, qua kim đồng hồ, chính là ranh giới ngăn cách quá khứ với tương lai. Đồng thời nó cũng nối kết quá khứ với tương lai v́ qua nó, quá khứ và tương lai tiếp cận nhau. Sự tiếp cận này mang tính thụ động, khiến giây lát bị thu hẹp thành một điểm và trở nên bất động. Tính cách tự nó bất động của giây lát như thế khiến cho sự chuyển động của sự vật trở nên khó hiểu, v́ sự chuyển động ấy phải lần lượt trùng hợp với vô số tư thế cũng hoàn toàn bất động. Điều chắc chắn là một « điểm » cần được h́nh dung như một cái ǵ trừu tượng, không thật, chỉ dùng cho việc tính toán. Nhưng khi định nghĩa giây lát như một điểm, người ta lẫn lộn h́nh ảnh trừu tượng với thực tế. Và đồng thời loại bỏ sự trở thành (v́ muốn có « trở thành », phải có chuyển động - NHV).

 

Phải đợi đến đầu thế kỷ 20, sự phát triển của phương pháp hiện tượng luận, trong giai đoạn thứ ba của công tŕnh sáng tạo của Husserl, mới cho phép tiến vào vấn đề hội nhập thời gian trong Hiện Tại Sinh Động. Từ đó, người ta vượt qua được các vấn nạn nêu lên bởi Aristote, để vạch rơ tính biện chứng của giây lát trong chính nó.

 

Sự thực là quan điểm của Husserl về Hiện Tại sinh động chỉ giới hạn trong lănh vực chủ quan của  kinh nghiệm thuần túy. Tuy nhiên chúng ta có thể xét lại phần chính yếu của quan điểm ấy, và thêm vào đó những khai triển và thay đổi cần thiết, để xây dựng một luận lư biện chứng thể hiện vận động của toàn thể sự hội nhập thời gian, hay nói cách khác, một luận lư tổng quát của hiện hữu trong tiến tŕnh chuyển động và trở thành của nó, cả trên phương diện chủ quan lẫn khách quan.

 

Một luận lư như thế có thể mở đường cho cái công tác mà Husserl, trong tập Krysis (Khủng Hoảng), đă chuyển giao cho hậu thế. Mục đích của công tác này là kiến tạo một quan niệm thực sự phổ quát về khoa học tự nhiên, về sử học, xă hội học và khoa học nhân văn, khả dĩ cho phép đạt đến một sự hiểu biết thực sự thuần lư về những vấn đề liên quan đến con người và các giá trị của con người, được lồng trong sự phức biến đa dạng, toàn diện và biện chứng, của ḍng lịch sử nhân loại.

 

Chúng ta có thể mô tả Hiện Tại sinh động bằng cách quan sát hoàn cảnh của hiện trạng Lúc Này, và vạch ra tính tồn đọng (của quá khứ - NHV) bên trong giây lát hiện tại, cùng với sự chuyển trôi của cái Lúc Này ấy do áp lực hướng đến tương lai. Từ đó, chúng ta có thể vẽ ra một « sơ đồ hội nhập thời gian » như sau :

 

 

 

 

 

Sự nối tiếp của thời gian luôn bao hàm trong chiều sâu của nó một sự lắng đọng từ trên xuống, vận hành như được lưu trữ từ dưới lên.

 

Sự lưu trữ R (rétention) đến từ các lắng đọng S (sédiment), ở giây lát I (instant), gắn liền với lúc này M (maintenant)  trong giây lát I  ấy (= RM).

 

Hiện hữu vẫn có mặt trong sự lưu trữ R, qua liên hệ với hoàn cảnh của lúc này M, hàm chứa một áp lực hướng đến tương lai P (protention).

 

Chúng ta đặt trong cùng một ngoặc đơn sự lắng đọng R với lúc này M : (RM), để cho thấy rằng phạm trù R kế thừa từ quá khứ, vẫn c̣n hiện hữu, khi nó trôi chảy vào lúc này M, để hợp nhất với M, v́ trong cái lúc này ấy, nó vẫn có mặt . Thế rồi chính lúc này M, mang trong nó sự lắng đọng từ quá khứ R vẫn c̣n có mặt, lại trôi chảy vào tương lai sắp đến, do áp lực hướng đến tương lai P (áp lực « hướng tiền » - NHV).

 

« Cái Hiện Tại luôn trôi chảy, chính là Hiện Tại của động lực chuyển trôi, để vừa trôi chảy vừa đến với sự trôi chảy. Người ta ư thức « lúc này », đồng thời với sự liên tục giữa những ǵ đă qua với chân trời sống động của tương lai, được phác họa trong áp lực hướng tiền. Sự « đồng thời » ấy mang ư nghĩa một « đồng thời » luôn chuyển trôi » (Husserl, C2I – 1932-1933 – dẫn bởi Trần Đức Thảo – Phénoménoogie et Matérialisme dialectique, tr. 143 – Note).

 

Cúng ta có thể nhận ra rằng « lúc này M », được biểu tượng bằng một đường thẳng đứng đi qua điểm M, bao hàm trong thực tế toàn bộ hiện trạng của thế giới (v́ tất cả những ǵ hiện hữu đều trôi chảy vào nó - NHV).

 

Và chính trong sự đồng thời liên hệ với hiện trạng của thế giới mà cái di sản lắng đọng từ quá khứ được trộn lẫn với lúc này, để chịu sự lôi kéo của tương lai sắp đến, qua áp lực hướng tiền.

 

Lư thuyết cổ điển về thời gian chỉ quan niệm sự chuyển trôi đơn giản như xảy ra trên một đường thẳng. Điều này cho phép định nghĩa thời gian theo toán học, qua sự đo lường bằng đồng hồ, như con số của sự chuyển động từ trước đến sau.

 

Kết quả là giây lát hiện tại, v́ chỉ được nh́n như giới hạn giữa sau và trước, nên bị thu hẹp một cách trừu tượng thành một điểm bất động. Với cách nh́n này, người ta không h́nh dung được sự chuyển động và trở thành, và càng gặp khó khăn hơn khi phải quan niệm một cách cụ thể ḍng lịch sử với ư nghĩa thiết thực của nó. Thời gian bị rút gọn thành chiều kích thứ tư (cùng với ba chiều - NHV) của không gian. Đó chính là trở lại với cách nh́n trừu tượng về quan hệ nhân quả, xóa bỏ tính phong phú trong các tương quan thực tế, với những phương thức tương tác đa dạng, những hệ thống nhân quả phức biến (2).

 

Chỉ với quan niệm Hiện Tại Sinh Động, bao hàm thực tế cụ thể, và xem thực tế ấy như căn bản được lấy làm chủ thể, người ta mới có thể nhận ra rằng thời gian h́nh thành từ chính cái cội nguồn Hiện Tại ấy, với ba chiều kích luôn tương tác với nhau một cách biện chứng :

 

-          chiều dài của bản thân sự chảy trôi,

-          chiều sâu của sự lắng đọng tồn trữ,

-          và chiều kích diễn tả tính đồng thời trong tương quan với hiện trạng của thế giới (yếu tố « môi trường, hoàn cảnh » nói trong chú thích 2 – NHV)

 

Cần nhận xét là hiện trạng thế giới bao gồm nhiều tầng lớp được cấu thành trong lịch sử, chồng chất lên nhau một cách hệ thống.

 

Khám phá Hiện Tại Sinh Động của Husserl với ba chiều kích hội nhập thời gian như vừa nói, dẫn đến công tác hiện đại hóa phương pháp tư duy một cách triệt để qua sự h́nh thành của một luận lư học mới, Luận Lư Hội Nhập Thời Gian trong Hiện Tại Sinh Động, hay Luận Lư Hiện Tại Sinh Động. Điều này cho phép h́nh dung những giải đáp cụ thể, một cách vừa lư thuyết vừa thực dụng, cho một số vấn nạn nền tảng của truyền thống triết học, như : sự tổng quát, đặc thù và cá biệt, tất yếu và ngẫu nhiên, tính trung gian, sự tự phủ định và phủ định của phủ định, sự mâu thuẫn, bản thể và hiện hữu, hiện hữu tự thân, hiện hữu vị tha, hiện hữu vị kỷ (3), đại lượng, tỷ lượng và vô lượng, nô lệ và tự do.

 

Giữa di sản của  quá khứ được trực tiếp cảm nhận , và áp lực hướng đến tương lai sắp xuất hiện, có một sự đối nghịch nền tảng. Đó chính là mâu thuẫn nội tại của thực tế, hiện diện trong mỗi giây lát, một mâu thuẫn luôn bao hàm tính thống nhất đồng thời với sự đối kháng giữa các mặt đối lập của nó.

 

Sự thống nhất của các mặt đối lập tồn đọng và hướng tiền cho thấy hiện thực của giây lát trong tính đồng nhất của sự hiện hữu của nó, như công thức luận lư trực tiếp : « Cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu »

 

Đồng thời, sự đối kháng giữa các mặt đối lập kia, tức giữa tương lai xắp xảy đến qua áp lực hướng tiền, với quá khứ c̣n tồn đọng, làm cho cái hiện thực ấy ch́m trong lưu chuyển dẫn đến tan biến, như được biểu hiện qua công thức luận lư được trung gian hóa :

 

« Cái ǵ hiện hữu th́ hiện hữu,

và đồng thời nó hiện hữu và không hiện hữu, v́ nó không c̣n hiện hữu »

 

Sự biến mất của Lúc Này vào quá khứ được thể hiện qua công thức phủ định trực tiếp của luận lư hội nhập thời gian : « Cái ǵ không hiện hữu, th́ không hiện hữu ».

 

Tuy nhiên, khi biến đi th́ quá khứ vẫn duy tŕ sự tồn đọng của nó, được thể hiện qua công thức của luận lư biện chứng được trung gian hóa :

 

« Cái ǵ không hiện hữu th́ không hiện hữu

và đồng thời, qua h́nh dáng của cái không c̣n hiện hữu nữa, nó vẫn hiện hữu »

 

Sự tồn đọng này hoàn tất chuyển biến bên trong giây lát hiện tại, khẳng định thực tế của giây lát ấy qua sự hiện hữu đă kiện toàn của nó, như được thể hiện qua công thức luận lư trực tiếp tổng quát : « Một sự hiện hữu chỉ có thể hoặc là A hoặc không A, không có giải pháp thứ ba »

 

Đồng thời, sự kiện toàn của chuyển biến bên trong giây lát hiện tại I, với sự tồn đọng đă nói, thực hiện tiến tŕnh bước sang giây lát kế tiếp I1. Điều này thể hiện qua công thức biện chứng tổng quát được trung gian hóa, như sau :

 

« Một sự hiện hữu chỉ có thể là A hoặc không A

và đồng thời, qua h́nh dáng đă hiện hữu của tương lai đang hiện lên, nó vừa là chính nó vừa là cái khác ».

 

Sự kiện là chính nó và là cái khác, trong chuyển động nội tại của giây lát I, diễn đạt việc bước sang giây lát I1.

 

Tóm lại, trong vận động nội tại của giây lát hiện tại có một sự chuyển biến song hành : giây lát là giây lát của chuyển biến từ quá khứ c̣n tồn tại, và chuyển biến đến tương lai sắp xuất hiện, từ tồn đọng đến hướng tiền. Kết quả của tiến tŕnh ấy là sự chảy trôi từ giây lát hiện tại đến giây lát kế tiếp.

 

Thật vậy, sự lắng đọng của giây lát I trong chuyển động « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi » tạo nên sự tồn đọng « r » của chính nó, trong sự chảy đi của lúc này M với lực hướng tiền P, khiến cho sự tồn đọng ấy trở thành tương lai sắp xảy ra, trong và dưới ảnh hưởng của lực hướng tiền P. Sự sắp xảy ra của tương lai được nh́n như sự nảy sinh cụ thể của tương lai ấy, chính là sự kiện toàn của giây lát hiện tại I, đưa nó sang giây lát kế tiếp I1.

 

Đến giây lát I1, sự tồn đọng « r » của giây lát trước đó được giải thoát để nối kết với hoàn cảnh mới, và trở thành lúc này M1 trong giây lát I1.

 

Sự chuyển biến từ mỗi giây lát hiện tại I sang giây lát kế tiếp I1, qua sự vận động nội tại của chính giây lát I, chính là sự kiện toàn của tiến tŕnh « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi », để sự chuyển biến được kiện toàn ấy tự nó trôi chảy từ một giây lát sang giây lát sau đó.

 

Như thế, sự vận động nội tại của mỗi giây lát hiện ra như một khoảng thời gian. Và những khoảng thời gian không ngừng trôi chảy từ cái này sang cái kia, chính là  Ḍng Thời Gian.

 

28/12/1992.

20/01/1993

 

§§§§§§§§§§§§§§§§§

 

 

III) Lư Thuyết Hiện Tại Sinh Động như Lư Thuyết của Cá Tính

 

Lư thuyết Hiện tại Sinh Động mở đường cho một  công tŕnh cho đến nay chưa từng được thực hiện trong khoa học.

 

Trong suốt truyền thống ba ngàn năm tư duy khoa học, người ta quan niệm đối tượng của nghiên cứu như một hệ thống tương quan giữa những sự vật. Tức là các sự vật chỉ được biết đến qua tương quan giữa chúng với nhau, khiến cho mỗi sự vật tự nó được định nghĩa như giao điểm của vô số tương quan mà nó có thể có. Nói cách khác, sự hiện hữu của sự vật ấy được biết đến như sự thu hẹp vào một trung tâm giữa các tương quan, cụ thể là bị trừu tượng hóa thành một điểm.

 

Đây chính là vấn nạn mà Aristote đă nêu lên qua câu nói vẫn c̣n giá trị cho đến ngày nay, rằng : « Chỉ có khoa học trong tổng quát, chỉ có hiện hữu trong cá biệt » (4).

 

Người ta có thể tạo nên những liên hệ rất tế nhị giữa khoa học nói chung và những ngành khoa học, hay nói cách khác, đặc thù hóa sự tổng quát. Nhưng cái đặc thù ấy vẫn c̣n tổng quát đối với sự cá biệt. Nó sẽ không bao giờ trở thành cá biệt.

 

Thật ra, khoa học có thể đạt đến hiện hữu qua kỹ thuật. Tuy nhiên, một cách cụ thể, khoa học chỉ đạt được đến hiện hữu ở một số điểm gặp gỡ. Nó không thể nắm bắt hiện hữu tự thân, tức hiện hữu cá biệt, hay cá tính của cái hiện hữu cá biệt ấy (4).

 

Tóm lại, triết lư khoa học, toán học và khoa học thực nghiệm, trong suốt ba ngàn năm phát triển, đă đem lại cho loài người những thành quả lớn lao trong việc làm chủ thiên nhiên, trong khi chính con người là một hiện hữu thuộc về thiên nhiên. Nhưng loài người đă không tiến được bước nào trong việc giải đáp bài toán đặt ra bởi sự hiện hữu cá biệt, và bởi vấn đề cá tính của sự hiện hữu ấy, v́ nó đă bị đơn giản hóa thành một điểm, qua việc lượng tính các tương quan.

 

Đến thời đại tân tiến, chủ nghĩa phê phán đă thần thánh hóa phát biểu của Aristote, cho rằng : sự hiểu biết chỉ có khả năng nắm bắt những hiện tượng được xác định bởi tương quan giữa các h́nh thái của cảm thọ và lư trí. Hiểu biết không thể đạt đến sự vật tự nó, sự vật tự thân.

 

Nhược điểm ấy được bù đắp bởi các chủ nghĩa lăng mạn và hiện sinh, với cái giá phải trả là khước từ khoa học và suy tư thuần lư.

 

X

X    X

 

Măi đến giữa những biến động của thế kỷ 20, triết lư của Husserl mới vượt qua được những giới hạn của chủ nghĩa phê phán (cho rằng hiểu biết không thể đạt đến sự vật tự thân - NHV), với luận lư h́nh thức và tiên nghiệm (5). Rồi, trong thập niên 1930, triết học này đi sâu vào những phân tích nền tảng về Hiện Tại Sinh Động, được hướng dẫn bởi thuyết Nhân Bản và sử quan thực tế, qua tập Krysis (Khủng Hoảng).

 

Thực tại sinh động chủ yếu là cá tính cụ thể, đặc thù, của hiện hữu, được cấu thành vào mỗi giây lát qua sự hội nhập thời gian, tức trong sự vận động nội tại của giây lát ấy, hay sự trở thành nội thân của nó, để tự nó kiện toàn sự chuyển dịch của ḿnh sang giây lát kế tiếp.

 

Một thí dụ biện chứng nội tại của Hiện Tại Sinh Động có thể được nh́n thấy qua sự hội nhập thời gian trong sinh học.

 

Vào mỗi giây lát, cá thể sinh học (6) xuất hiện như một hệ thống chức năng kế thừa quá khứ, với những ǵ lắng đọng từ quá khứ ấy, nhưng vẫn c̣n hiện hữu qua sự tồn đọng, để kết hợp với hiện trạng của lúc này.

 

Hệ thống chức năng sinh học tồn đọng trong hiện trạng của lúc này, đồng thời liên hệ với hoàn cảnh của cái lúc này ấy, tạo nên một sức ép trên sự chuyển hóa hoạt động của hệ thống chức năng kia, đưa nó hội nhập vào tương lai sắp xảy đến. 

 

Sự đối kháng giữa chức năng tồn đọng và chức năng hướng đến tương lai, chính là mâu thuẫn nội tại của cá thể sinh học.

 

Mâu thuẫn này mang tính thống nhất trong sự đồng hóa (tức việc thu nhập các chất nuôi dưỡng được cá thể sinh học biến thành chính nó - NHV), để tái tạo cá thể sinh học trong sự hiện hữu vào lúc này của nó, khiến cho : nó là cái nó là, thể hiện công thức luận lư trực tiếp : điều ǵ hiện hữu th́ hiện hữu.

 

Tính thống nhất của mâu thuẫn (giữa chức năng tồn đọng và chức năng hướng đến tương lai - NHV) đồng thời đi chung với sự đối kháng giữa các mâu thuẫn ấy, thể hiện bằng sự phân hủy và đào thải, đặt cá thể này trên con đường tan biến, khiến cho : nó hiện hữu và không hiện hữu, theo nghĩa nó không c̣n hiện hữu.

 

Tuy nhiên khi chuyển từ hiện hữu sang không hiện hữu, theo nghĩa không c̣n hiện hữu, chỉ một phần của cá thể sinh học biến đi, đó là chất liệu bị phân hủy và đào thải. Phần được tái tạo của nó vẫn tồn tại, qua sự đồng hóa. Phần được tái tạo ấy là cái cấu trúc của cá thể sinh học tuần tự lắng đọng theo nhịp tái tạo, trong ḍng chảy của sinh hoạt của nó, từ lúc này hướng đến tương lai. Tức là : cá thể kia không c̣n hiện hữu, nhưng vẫn hiện hữu.

 

Sự lắng đọng tức thời, tái tạo cấu trúc sinh học qua sự đồng hóa, và biểu hiện như sự tồn đọng bên trong chức năng sinh học, được lưu truyền bởi chính sự chuyển trôi của nó. Đồng thời cái chức năng được tái tạo và vẫn c̣n hiện hữu ấy (« vẫn c̣n hiện hữu » v́ vẫn giữ những đặc tính của nó - NHV), hiện lên như tương lai sắp xảy đến, trong đó sự trở thành của cá thể sinh học vào giây lát hiện tại, kiện toàn vận động « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi » trong nó, để chuyển sang giây lát kế tiếp.

 

Như thế, vận động nội tại của cá thể sinh học trong giây lát hiện tại, được định nghĩa như bước  chuyển của chức năng tồn đọng trong hiện trạng lúc này, sang chức năng hướng đến tương lai, với sự đối kháng giữa « chức năng » và « vận hành » bên trong cá thể ấy. Sự thống nhất của mâu thuẫn bên trong này chính là khả năng đồng hóa. Và sự đối kháng giữa các mặt đối lập của nó, là phân hủy và đào thải.

 

Bước chuyển nội tại từ Tồn Đọng trong hoàn cảnh của Lúc Này, đến áp lực Hướng Tiền, được nh́n  như khái niệm « Nisus », tức đà phóng ẩn tàng trong cá thể sinh động. Điều này hoàn tất với sự lắng đọng tức thời và sự tồn trữ trong cá thể ấy của công năng đồng hóa đang diễn ra, khiến cho cấu trúc chủ tŕ chức năng sinh học của nó được tái tạo. Cấu trúc được tái tạo và lập tức lắng đọng này hiện ra, qua  sự tồn đọng trong nó, như chiều hướng sắp đến của tương lai, để biểu hiện bằng tương lai thực sự sắp hiện lên. Như thế, đà phóng nội tại, Nisus, chấm dứt bằng thôi thúc lao tới, hay Appetitus (Appetitus đến từ căn Ấn Âu « pete- » là « lao tới » - NHV). Trong Appetitus, cá thể sinh học kiện toàn sự vận động bao gồm « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi » trong giây lát hiện tại , để chuyển trôi vào giây lát kế tiếp.

 

X

X     X

 

Rơ ràng là trong toàn bộ sự hội nhập thời gian của cá thể sinh học, chúng ta đă giả định trước những dữ kiện từng được thu đạt bởi khoa học thực chứng. Những dữ kiện này định ra các khái niệm chức năng và cấu trúc sinh học, khái niệm chuyển hóa, vận hành, đồng hóa, phân hủy và đào thải, cùng với sự tái tạo của cấu trúc chức năng.

 

Cùng lúc, chúng ta đă hội nhập các dữ kiện thực chứng ấy trong sự vận động nội tại của cá thể ở  giây lát hiện tại. Tức là : quá khứ được tồn trữ, sự hiện hữu trong lúc này, áp lực hướng tiền, thống nhất mâu thuẫn nội tại và đối kháng giữa các yếu tố đối nghịch, sự tái tạo của cá thể và sự lắng đọng lập tức của nó như sự tồn đọng nội thân, trong đó, việc tự nó trở thành được kiện toàn trong sự chuyển trôi sang giây lát tiếp theo. Nói cách khác, « biện chứng sinh học hội nhập thời gian » thu nạp các dữ kiện khoa học thực chứng, mang tính cách đơn thuần trí năng, rồi nâng chúng lên dạng thức cảm thông  (7) để hiểu cá thể sinh học trong sự hiện hữu của nó. Cá thể ấy không c̣n bị đơn giản hóa, bởi trí năng phân tích thực chứng, như một tập hợp các tương quan bên ngoài nó, được tập trung vào một giao điểm trừu tượng. Cá tính hiện ra qua vận động nội tại, trong giây lát hiện thời, được kết thúc trong chính nó, bằng sự chuyển trôi vào giây lát kế tiếp.

 

X

X     X

 

 

Sự « hiểu biết cảm thông » (7) cho phép chúng ta nắm bắt tính đồng nhất cụ thể của một cá thể sinh học trong sự trở thành của nó ở giây lát hiện tại. Sự trở thành ấy tự chấm dứt và tự đổi mới bằng cách chuyển trôi từ chính nó sang giây lát kế tiếp. Như thế, sự lưu chuyển nội tại từ giây lát hiện tại đến giây lát tiếp theo, duy tŕ cái cá tính trong nó, suốt ḍng thời gian (tức là duy tŕ những đặc tính đủ để người ta vẫn nhận ra « nó là nó » - NHV).

 

Sự hiện hữu của một cá tính có giới hạn, nhưng di sản của nó được truyền lại trong sự chuyển lưu đến các thế hệ sau. Như thế, trong sự vận động nội tại nhân lên nhiều lần của chúng, các cá thể sinh học liên tục chảy trôi, với những thời kỳ, chu kỳ, thời đại, để qua sự trở thành nội tại của chúng, cấu thành các h́nh thức sinh học phát triển (« nó là nó », nhưng cũng « không c̣n là nó », cho phép sự tiến hóa thành những sinh vật mới, phát triển hơn – NHV).

 

Trong sự phát triển nội thân của các cá thể sinh học như thế, sự xuất hiện của những h́nh thức mới mẻ làm cho khoa học thực chứng lúng túng. Lư do v́ khi chỉ phân tích các tương quan ngoại tại, tập trung vào cá thể như một giao điểm trừu tượng, thay v́ thông hiểu sự vận động nội thân của các cá thể hiện thực, th́, dù cho sự phân tích từ bên ngoài ấy có phong phú cách mấy, cũng không thể hiểu nổi tính sáng tạo của các cá thể này. Trước vấn đề đặt ra bởi thuyết tiến hóa, sinh học cơ giới tự phân ra thành rất nhiều trường phái, mà vẫn không cho thấy được là làm thế nào để liên kết các kết quả nghiên cứu của mỗi phương pháp, nếu tiếp tục đứng trên quan điểm thực chứng của sự phân tích ngoại tại.

 

Chỉ có sự « hiểu biết cảm thông » mới làm sáng tỏ sự phát triển nội thân trong tiến tŕnh tiến hóa. Điều này  càng đúng trong lănh vực tiến hóa của hành vi. Sự phong phú của lănh vực này, ngay từ khởi thủy của sinh vật đa bào, đă xây dựng nên tiền đề của sự vận động có xu hướng với tính đối kháng giữa vận động trương lựcvận động từng  kỳ (sẽ được khai triển – NHV), trong đó người ta nhận ra, từ loài « ruột khoang » (Coelentéré), cái nguồn gốc sẽ cho ra ư thức nơi con người. Tuy nhiên, sự phong phú này lại bị thần kinh học cơ giới xóa nḥa và đơn thuần làm lẫn lộn với khái niệm phản xạ, được sơ lược hóa một cách trừu tượng.

 

21/2/1993

 

§§§§§§§§§§§§§§§§§§

 

 

 

IV) Lư thuyết Hiện Tại Sinh Động như Lư Thuyết của Tính Kết Hợp

 

Chúng ta đă khảo sát cá tính trong sự vận động nội tại của nó, với các hiện tượng « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi » trong giây lát hiện tại, được kiện toàn khi chuyển từ giây lát ấy sang giây lát sau. Sự trở thành được nối tiếp từ một giây lát sang giây lát kế theo, xác định ḍng thời gian trong đó các cá thể sản sinh và kết tụ ít nhiều giữa chúng với nhau để tạo thành những cá thể phức hợp.

 

Trong chiều hướng ấy, một số sinh vật đơn bào tiết ra các chất keo, làm cho chúng dính lại thành  từng tập hợp, để trở nên những tế bào thành viên của các cá thể phức hợp như trong loài « Bọt Biển ». Với sự kết hợp này, hiện ra ba môi trường :

-          môi trường bên ngoài, có ranh giới là các tế bào của « lá ngoài »,

-          môi trường bên trong, tạo thành một « khoang vị » bao phủ bởi các tế bào của « lá trong »

-          và môi trường trung gian hay “lá giữa” nối kết hai môi trường kia.

 

Với ba môi trường ấy, cá thể phức hợp « Bọt Biển » tự cấu thành trong Hiện Tại Sinh Động bởi sự thâm nhập của thức ăn từ ngoài vào trong, qua các lỗ hấp thụ của lá giữa.

 

Nhờ đó, chức năng hấp thụ, kế thừa các bước tiến hóa trước, được tồn đọng trong cấu trúc của Bọt Biển, chuyển hóa sang chức năng hướng tiền. Trong bước chuyển bao hàm đối nghịch giữa di sản của quá khứ với áp lực hướng tiền ấy, sự chuyển trôi từ sự tồn đọng vẫn c̣n hiện hữu, sang hiện hữu trong lúc này, đến hiện hữu với áp lực hướng vào tương lai sắp xảy ra, xác định sự hội nhập thời gian. Đó cũng là mâu thuẫn nội tại của loài Bọt Biển.

 

Tính thống nhất của mâu thuẫn ấy đẩy Bọt Biển vào sự vận động nội tại của chức năng đồng hóa (thu nạp chất nuôi dưỡng để biến hóa thành chính nó - NHV), để xây dựng cái thực hữu của nó, khiến nó « là » một hiện hữu, như quy luật luận lư trực tiếp : cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu.

 

Cùng lúc, sự đấu tranh giữa các phạm trù mâu thuẫn, tức giữa sự chuyển hóa hay chức năng hướng tiền, và các cấu trúc của chức năng tồn đọng, làm cho sinh vật ấy chuyển trôi đến sự tan biến của nó, với việc phân hủy và đào thải những cặn bă qua lỗ tiêu hóa, theo quy luật luận lư được trung gian hóa : cái ǵ hiện hữu, th́ hiện hữu, đồng thời nó hiện hữu và không hiện hữu với ư nghĩa nó không c̣n hiện hữu.

 

Tuy nhiên, sự đồng hóa bao hàm chức năng tái thiết cái cấu trúc bị phân hủy kia (bằng các chất nuôi dưỡng lấy từ môi trường – NHV), khiến cho sinh vật nọ, dù không hiện hữu nữa, lại vẫn c̣n hiện hữu. Nói cách khác, cùng với sự phân hủy, cấu trúc được tái tạo liền lập tức lắng đọng trong nó, đồng thời duy tŕ các đặc tính cơ bản của nó. Thiếu những đặc tính này th́ sinh vật ấy không c̣n là nó, theo quy luật : một hiện hữu, chỉ có thể là A hoặc không A.

 

Cùng lúc, sự tái tạo đang lắng đọng hướng đến tương lai sắp hiện lên. Điều này bao hàm xu hướng dẫn đến một hiện hữu khác biệt, theo quy luật : một hiện hữu, chỉ có thể là A khặc không A, tuy nhiên, trong h́nh dáng của hiện hữu đă bước sang tương lai đang hiện đến, th́ nó vừa là chính nó, vừa là cái khác.

 

Sự trở thành nội tại của Bọt Biển cứ tiếp nối như thế trong ḍng thời gian, thông qua muôn vàn dáng vẻ khác nhau, cho đến lúc sự phát triển của khoang vị khiến cho môi trường bên trong trở thành ưu tiên đối với bên ngoài. Thức ăn không c̣n thâm nhập qua các lỗ hấp thụ nữa, mà được lấy vào qua lỗ thổ nạp, một đặc tính của loài Ruột Khoang (Coelentéré) (như con sứa - NHV).

 

Sinh vật này hấp thụ thức ăn bằng cách nuốt chậm qua lỗ thổ nạp, rồi th́nh ĺnh tống nhanh xuống phôi vị (gastrula). Ngược lại chức năng đào thải khởi đi từ phôi vị bằng một sự đưa ra chậm chạp, trước khi th́nh ĺnh tống xuất những yếu tố cần đào thải, cũng qua lỗ thổ nạp.

 

Như thế, bước chuyển bao hàm đối nghịch giữa cấu trúc tiêu hóa tồn đọng trong bối cảnh lúc này, với áp lực hướng tiền đi vào tương lai sắp xảy đến, chuyển từ một nhịp độ chậm, sang  nhanh. Tức là phải có sự vận dụng hai loại mô « thần kinh - cơ » : một loại mang khả năng tác động theo phương thức chậm, c̣n gọi là trương lực, loại kia theo phương thức nhanh, hay từng kỳ.

 

Kết quả là sự hội nhập thời gian của tính kết hợp, đă phức tạp trong cá thể phức hợp của loài Bọt Biển, đạt đến ở đây một h́nh thức mang chất lượng cao hơn, với sự xuất hiện của loài Ruột Khoang.

 

Thật vậy, sự « chuyển biến bao hàm đối nghịch », lưu chuyển từ quá khứ không c̣n hiện hữu, đồng thời vẫn hiện hữu bởi di sản tồn đọng trong nó, tức từ « hiện trạng lúc này » của cấu trúc tiêu hóa, sang tương lai chưa xảy đến, nhưng đă bắt đầu hiện ra trong áp lực của hoạt động hướng tiền nơi  chính sự tiêu hóa ấy, trong trường hợp loài Ruột Khoang, được phân thành hai giai đoạn. Đó là : giai đoạn chuyển sang trương lực và giai đoạn chuyển sang từng kỳ, khi chuyển biến ấy hội nhập  thời gian sự đối kháng giữa quá khứ và tương lai, phần nào như « mũi tên thời gian » của lúc này. Nói cách khác, sự hội nhập thời gian của một cá thể phức hợp như loài Ruột Khoang diễn ra theo một nhịp điệu kép : hệ thống « thần kinh - cơ » của chức năng tiêu hóa chuyển dần từ vận động trương lực, như một sự sửa soạn từ từ, sang vận động từng kỳ, như sự hoàn tất của nó.

 

Tóm lại, ở đây chúng ta có một sự « chuyển biến đối nghịch bao gồm hai mặt », hay một sự lưu chuyển bao hàm đối nghịch, từ tồn đọng đến hướng tiền, qua một lúc này được phân đôi. Sự hội nhập thời gian được phân đôi như thế, sản sinh ra mâu thuẫn nội thân phức biến của loài Ruột Khoang. Tính thống nhất của mâu thuẫn này đặt cá thể phức hợp ấy trong sự vận động nội tại tổng quát của nó, thể hiện hành vi đầu tiên nơi các sinh vật đa bào. Đó là sự co thắt, được chuyển từ lá trong ra lá ngoài, lan đến hệ thống chân-tua, nơi mà các mô « thần kinh - cơ » cũng được phân thành hai loại (8).

 

Sự đối kháng giữa các mặt mâu thuẫn ấy đưa đến chấm dứt co thắt, trong trạng thái buông lỏng, nghỉ ngơi.

 

X

X     X

 

Hành vi nguyên thủy dựa trên « co thắt » được thấy nơi trẻ sơ sinh. Khi bú sữa, nó xen kẽ nuốt vào và nôn ra. H́nh thức co thắt cũng thể hiện qua việc kêu khóc, cười, ngoảnh đầu và trở ḿnh.

 

Sự thực là, ngay từ những ngày đầu của cuộc sống, trẻ nhỏ đă cho thấy một khả năng phân biệt trong lănh vực cảm thọ cao hơn loài Ruột Khoang. Lư do v́ cấu trúc của các cơ quan cảm thọ của nó đă mang những đặc tính người, mặc dù chúng mới chỉ bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, tŕnh độ phát triển của hệ thần kinh được định nghĩa chủ yếu bởi hành vi. Nơi trẻ sơ sinh, hành vi ấy không vượt quá h́nh thức co thắt, chưa đạt đến h́nh thức di chuyển, thể hiện nơi loài giun.

 

X

X     X

 

Để làm rơ hơn ư nghĩa của sự đối nghịch giữa vận động trương lực và từng kỳ, tiêu biểu cho hành vi  của loài vật, cần khảo sát các h́nh thức sinh vật phát triển hơn.

 

Nơi loài Có Vú, vận động trương lực thể hiện trong các động tác chậm chạp để đảm bảo tư thế. Điều này chủ yếu liên quan đến phạm trù « tự thân » (9) của nó, khiến sinh vật sẵn sàng chuyển sang hành động thiết thực trên một đối tượng, khi t́nh thế cho phép và đ̣i hỏi.

 

Vận động từng kỳ là đông tác nhanh, đột khởi, tác động đúng lúc và thiết thực trên đối tượng.

 

X

X     X

 

 

Hăy quan sát một con mèo trong tư thế ŕnh chuột.

 

Một lúc nào đó, tiếng xào xạc cho biết chuột đang hay sắp xuất hiện. Con mèo liền trầm ḿnh xuống, bụng gần chấm đất, trong tư thế sẵn sàng nhảy đến vồ mồi. Đôi mắt nó thể hiện một sự chú ư mănh liệt.

 

Tư thế ban đầu, tức tư thế chờ đợi, được thay thế bởi tư thế thứ hai, là tư thế « tập trung chú ư ».

 

Rốt cuộc chú chuột xuất hiện trong tầm chụp bắt của mèo, và liền bị vồ lấy : đó là tác động thiết thực trên đối tượng.

 

Trong hai giai đoạn đầu, những cử động của mèo được thực hiện một cách chậm chạp, biểu hiện sự căng thẳng trương lực, chủ yếu ảnh hưởng trên « tự thân » của nó (9). Sự vận động trương lực đưa đến những tư thế chuẩn bị cho hành động rốt ráo trên mục tiêu, tức là nhảy vọt đến và vồ lấy con chuột. Hành động nhảy vồ ấy bao gồm những co thắt bắp thịt nhanh chóng, đột khởi, được xếp vào loại co thắt từng kỳ.

 

Phải nhận xét rằng trong khi bước nhảy và động tác vồ mồi diễn ra, th́ sự chú ư không những vẫn tiếp tục, mà c̣n tăng thêm cường độ, đến tột đỉnh, để đảm bảo sự chính xác của động tác thiết thực trên mục tiêu. Thái độ chú ư ấy ḥa tan trong hành động vồ mồi, nên không thể hiện bằng một tư thế đặc biệt nào cả. Tuy nhiên, động tác thiết thực, trong suốt tiến tŕnh của nó, được trợ lực bởi thái độ chú ư cực cao này. V́ nó đảm bảo sự chính xác của bước nhảy và động tác vồ bắt, nên có thể được gọi là sự « chú ư hữu hiệu ».

 

Tóm lại, động tác lấy thế, chủ yếu dựa trên « tự thân », mang tính lâu dài, đồng thời luôn được điều chỉnh, để có thể chuyển từ tư thế sang hành động. Ngược lại, hành động thiết thực trên đối tượng có tính gián đoạn, đột khởi, v́ bị lệ thuộc vào sự xuất hiện của mục tiêu bị ŕnh bắt trong tầm hành động của con vật săn mồi.

 

Động tác lấy thế dựa vào việc hướng đến hành động thiết thực, ở đây là việc vồ chuột. Nó cũng là hướng đến chính đối tượng ấy. Năng lượng của sự « hướng đến » này được đem lại bởi căng thẳng trương lực.

 

Trong suốt tiến tŕnh ấy, những cảm giác hay h́nh ảnh  cơ bản hiện ra trên vơng mạc và các cơ quan thụ cảm khác của con mèo, được phóng chiếu vào các trung khu năo bộ, để được tế bào thần kinh  phân tích, kết hợp và biến đổi thành sự nhận thức t́nh h́nh, chỉ đạo cho hoạt động của nó.

 

Tiến tŕnh tổng quát diễn ra ở đây như sự tiến hành của một khuynh hướng duy nhất, tức như sự vận động có chủ đích của các tư thế dự bị, của sự chờ đợi, sự chú ư tập trung, và cuối cùng là tư thế và sự chú ư hữu hiệu, được ḥa tan trong hành động thiết thực trên mục tiêu, kiện toàn cái khuynh hướng ban đầu.

 

Trong hệ thần kinh của con mèo, toàn bộ sự vận động có chủ đích này kéo theo sự chuyển động của những h́nh ảnh trong năo bộ, đi từ cơ quan thụ cảm đến trung khu thần kinh, rồi từ trung khu thần kinh đến cơ quan tác động. Các h́nh ảnh ấy thực sự hiện hữu trong sự chuyển động phức tạp của luồng thần kinh. Một số dấu hiệu của chúng có thể được quan sát bằng những dụng cụ tân tiến.

 

Tuy nhiên, vấn đề là : con mèo nh́n thấy môi trường chung quanh và mục tiêu vồ bắt trong hoàn cảnh thực tế, tức là không  phải ở trong năo bộ của nó, mà ở bên ngoài, trước mặt nó. Làm sao điều ấy có thể xảy ra được, khi h́nh ảnh của đối tượng mà nó ŕnh bắt, chỉ nằm trong hệ thần kinh của nó, chứ không hiện hữu bên ngoài nó ?

 

Để cho rốt cuộc con mèo có thể vồ được chuột, th́ mèo phải nh́n thấy chuột ở đúng chỗ của chuột, tức là trước mặt mèo, và đương nhiên là bên ngoài mèo. Làm sao h́nh ảnh của con chuột ở trong đầu con mèo, lại có thể được chuyển ra ngoài nó, vào đúng vị trí nơi mèo nh́n thấy chuột ?

 

Đương nhiên là từ « chuyển » không thể dùng ở đây với nghĩa bóng. H́nh ảnh chuột trong hệ thần kinh của mèo (gọi là « h́nh ảnh thần kinh » - NHV), có thể được phát hiện bởi các phương pháp đo lường như PET scan hay chụp cộng hưởng từ trường. H́nh ảnh ấy chỉ hiện hữu trong sự vận hành của luồng thần kinh, chứ không thể nào được « chuyển » ra ngoài một cách cụ thể. H́nh ảnh chuột mà mèo nh́n thấy trước mặt nó hiển nhiên là một h́nh ảnh không có thật. Chúng ta có thể phần nào  so sánh h́nh ảnh ấy với h́nh ảnh ảo của một sự vật trong gương, tức một điểm được tạo thành do ảo giác tia sáng phản chiếu trên tấm gương khởi đi từ nó.

 

Trong trường hợp h́nh ảnh chuột mà mèo thấy trước mặt, bên ngoài nó, mặc dù chỉ hiện hữu trong luồng thần kinh lưu chuyển trong nó, chúng ta có thể nói đến một « h́nh ảnh tiềm năng », với ư nghĩa h́nh ảnh ấy mang tiềm năng được phóng chiếu ra ngoài cơ thể mèo, nơi mèo nh́n thấy chuột.

 

Khái niệm « tiềm năng phóng chiếu » có thể được lấy từ mô h́nh hoạt động của h́nh ảnh thần kinh. Thật vậy, h́nh ảnh ấy phản ảnh hoạt động thực sự của mèo, tức sự vận động có xu hướng của các tư thế, hương đến tác động thiết thực, nhằm vào chính con chuột thực thụ (chứ không phải vào h́nh ảnh của chuột – NHV). Hoạt động có xu hướng này lấy năng lượng từ sự căng thẳng trương lực, và được định hướng bởi những nối kết thần kinh được cấu tạo từ các kinh nghiệm đă qua của mèo. Trong năo bộ của mèo, nó thể hiện qua h́nh ảnh con chuột, với các vị trí liên hệ cũng như động tác cần thiết. Kết quả là h́nh ảnh thần kinh thực thụ phản ảnh xu hướng hành động của mèo, được phóng theo các luồng thần kinh hướng ngoại, khiến nó có thể nh́n thấy chuột qua một « h́nh ảnh mang xu hướng » bên ngoài nó, trước mặt nó.

 

Tiềm năng phóng chiếu ấy được tiến hành cụ thể từ h́nh ảnh thần kinh thực thụ, qua luồng thần kinh hướng ngoại, đến ranh giới của thân thể mèo, rồi trở thành tiềm năng (v́ không có thực -  NHV), bên ngoài ranh giới ấy, khi mèo phóng chiếu cái « h́nh ảnh tiềm năng » của chuột ra trước mặt nó. Chúng ta có thể coi toàn bộ sự vận động này như một sự phóng chiếu có xu hướng, và coi « h́nh ảnh tiềm năng » mà nó làm ra, như sự phóng chiếu của một tiềm năng h́nh ảnh. H́nh ảnh ấy không có thực, nhưng thiết thực, v́ thực sự được quy định bởi h́nh ảnh thần kinh có thực trong các luồng thần kinh hướng ngoại. Nó có thể được coi như một sự phô tŕnh tiềm năng có chủ đích, một h́nh thức « chủ quan được định hướng ». Tiến tŕnh này khởi đi từ sự vận động của các tư thế, đặt nền tảng trên căng thẳng trương lực, để đưa cấu trúc sinh học đến sự tự vượt qua chính nó (v́ vượt ra ngoài giới hạn bản thân – NHV).

 

Tất nhiên những hiện tượng cơ bản của sự vận động phức tạp ấy chính là những phản xạ. Nhưng tổng hợp các căng thẳng trương lực, theo nhịp của những cảm thọ nhất thời, trong khuôn mẫu của  kinh nghiệm sẵn có, hướng tới tiềm năng quy kết vào con chuột, và vượt ngoài giới hạn của các luồng thần kinh hướng ngoại, tức vượt ngoài giới hạn của thân thể con mèo. Kết quả là các căng thẳng trương lực ấy thực hiện việc phóng chiếu mang xu hướng  một h́nh ảnh tiềm năng của chuột ra ngoài con mèo, trước mặt nó, ở đúng chỗ mà mèo sẽ vồ lấy chuột bởi những động tác đột biến, đoản kỳ.

 

Vấn đề là hiểu được làm thế nào các cấu trúc thần kinh của sự vận động trương lực, vốn được coi như những phản xạ, cũng như các cấu trúc của vận động từng kỳ, có thể phóng được ra bên ngoài giới hạn thân thể của một sinh vật, một h́nh ảnh không có thực, nhưng thiết thực, với ư nghĩa « hàm chứa tiềm năng ».

 

Trước bế tắc này, chúng ta cần quay về nguồc gốc của vận động trương lực, nơi loài Ruột Khoang, để t́m xem ở giai đoạn ấy đă có hiện tượng nào tương tự như tiềm năng phóng chiếu h́nh ảnh con chuột ra trước mặt chú mèo hay không ?

 

Chúng ta đă biết là sự co thắt diễn đạt tính thống nhất trong mâu thuẫn nội thân của sinh vật Ruột Khoang, giữa sự vận động trương lực và từng kỳ, từ lỗ thổ nạp đến phôi vị. Nó lan từ lá trong ra lá ngoài, đến các chân-tua, trong đó hệ thống « thần kinh-cơ » được phân thành hai loại, từng kỳ và trương lực. Bây giờ, nếu chúng ta quan sát lúc lỗ thổ nạp mở ra, th́ chúng ta sẽ thấy hiện ra một khoảng trống, vừa bên trong, vừa bên ngoài thân thể của con vật.

 

Đối với trẻ nhỏ th́ đó chính là « khoảng miệng ». Khoảng trống này hấp thụ vào bên trong khi ngậm miệng. Nhưng khi mở miệng, th́ nó tỏa ra một phạm vi trong thực tế nằm ngoài ranh giới của thân thể, là cửa miệng. Tuy nhiên phạm vi ấy, tức khoảng trống được tạo ra khi cửa miệng mở ra, phần nào cũng thuộc phần trong của miệng, theo ư nghĩa nó ở trong trạng thái sẵn sàng được « trưng dụng » khi miệng đóng lại. Nói cách khác, nó nằm dưới « quyền sử dụng » của miệng.

 

Tương tự như thế, khoảng trống hạn hẹp giữa các chân - tua của loài Ruột Khoang tuy nằm ngoài thân thể nó, nhưng v́ ở trong phạm vi tác động của các chân - tua ấy, nên coi như nằm trong « khoảng chân tua » (tương đương với « khoảng miệng » của trẻ nhỏ - NHV). 

 

Tóm lại, sinh vật Ruột Khoang có thể sử dụng, bên ngoài ranh giới thân thể của nó, một khoảng trống thuộc về nó, trong ư nghĩa nó có thể tác động một cách hữu hiệu và thích nghi trên những chất dinh dưỡng hay độc hại trong khoảng trống này. Như thế, chúng ta buộc phải chấp nhận là có một h́nh ảnh biểu thị sự chiếm hữu ấy, tức một « h́nh ảnh tiềm năng » gợi lên cho chủ thể sinh học một chủ hướng, là khả năng chiếm hữu vừa nói . Như thế, « khoảng chân tua », trong đó sinh vật ruột khoang tiết ra những chất nhờn dính từ cơ thể nó, tương ứng với « h́nh ảnh tiềm năng phóng chiếu » mà chúng ta đă nhận thấy nơi con mèo khi nó ŕnh chuột, và, qua sự vận động trương lực, sửa soạn những tư thế để sẵn sàng vồ lấy chuột.

 

Khi được phóng ra bởi các luồng thần kinh hướng ngoại, h́nh ảnh tiềm năng này xác định chủ hướng được gợi lên bởi các h́nh ảnh thực sự đă được cảm nhận, nằm trong các tế bào thần kinh thụ cảm của sinh vật ruột khoang. Chúng lưu chuyển trong hệ thần kinh và làm khởi phát những luồng thần kinh trương lực hướng ngoại, với mục đích hấp thụ những chất dinh dưỡng qua lỗ thổ nạp và đẩy lùi những ǵ độc hại.

 

Xu hướng ấy của vận động trương lực phát triển cùng với sự tiến hóa của hành vi nơi các sinh vật, từ sự co thắt nguyên thủy qua sự di chuyển của loài sâu, đến việc chặn bắt nơi loài cá, rồi sự săn đuổi và tẩu thoát nơi sinh vật bốn chân, thuộc các loài ăn tạp, ăn cỏ, hay ăn thịt. Tức là sự phát triển của hệ thần kinh (trong lịch sử tiến hóa –NHV) khiến cho cái khoảng trống chân - tua hạn hẹp của loài ruột khoang, phần nào tương ứng với khoảng miệng, dần dần trở thành một môi trường phụ cận. Từ h́nh ảnh thần kinh thực thụ, vốn mang khả năng điều chỉnh sự vận động trương lực qua các tư thế, một tập hợp h́nh ảnh tiềm năng được phóng chiếu vào môi trường  phụ cận này, để sinh vật có thể nhận thấy các đối tượng cách xa nó. Các h́nh ảnh tiềm năng ấy  định ra chủ hướng của các tư thế, và rốt cuộc là chủ hướng của động tác đoản kỳ thiết thực trên đối tượng. Như thế, loài ăn thịt theo sát rồi vồ lấy con mồi của nó. Loài bị săn né tránh và có thể  thực sự thoát khỏi con vật đang săn nó.

 

Đương nhiên là, nơi loài vật, việc tạo nên h́nh ảnh tiềm năng, để vạch ra chủ hướng của h́nh ảnh thần kinh thực thụ, cũng như xác định hiệu năng của hành vi, hoàn toàn không có chủ tâm. Xu hướng của vận động trương lực, trong sự căng thẳng cụ thể quyết định hiệu năng của con vật, rơ ràng là không được trải nghiệm một cách ư thức. Trải nghiệm ư thức (chỉ hiện hữu nơi con người – NHV) đ̣i hỏi ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đ̣i hỏi tiếng nói bên trong, qua đó con người tự giải bày với ḿnh về cái h́nh ảnh được nhắm đến, như một đối tượng mang chủ ư.

 

Trong cảm nhận chủ quan của súc vật, h́nh ảnh thần kinh cũng như vị trí của đối tượng được phóng chiếu ra ngoài một cách có xu hướng, vào đúng vị trí thật của đối tượng ấy, chỉ mang một tiềm năng chứ không hề có chủ tâm. Lư do v́ con vật chỉ phóng chiếu, trong hệ thống h́nh ảnh ấy, cái khả năng được định hướng của các tư thế của nó, được kết thúc trong tác động thực tiễn trên đối tượng. Nó không có tiếng nói, càng không có tiếng nói bên trong. Con mèo ŕnh chuột, cho đến khi chuột xuất hiện, chỉ tập trung sự chăm chú mănh liệt vào con mồi, chứ hiển nhiên là không có ǵ để tự nói với ḿnh : nó chỉ biết hướng đến việc vồ mồi. V́ không có tiếng nói, nên chủ ư không thể có. H́nh ảnh mang định hướng của con vật chỉ là tiềm năng, không có chủ tâm (10).

 

Hệ thống h́nh ảnh tiềm năng nơi súc vật chỉ vẽ lên những h́nh ảnh tiềm năng như chủ hướng của hoạt động của nó chứ không phải như ư nghĩa của các hoạt động này (được ư thức, qua « tiếng nói bên trong » (10) - NHV). Ư nghĩa  đ̣i hỏi chủ tâm nhắm đến  mục tiêu, và quy định tính chủ thể (được trừu tượng hóa – NHV) nơi con người. Chủ hướng, theo  nghĩa hẹp, chỉ liên quan đến khả năng của hành vi, được con vật h́nh dung với tính cách chủ thể của hành vi ấy (chủ thể được cảm nhận như một sự vật – NHV) (11).

 

Thật ra, chủ hướng, theo nghĩa rộng, có thể được hiểu như « ư nghĩa ». Trong tinh thần ấy, chúng ta có thể coi hai khái niệm này như nằm trên cùng một tiến tŕnh tiến hóa nhất quán, từ cái « chủ hướng  sinh học » như h́nh ảnh tiềm năng của đối tượng trong sinh hoạt của loài vật, đến « ư nghĩa » trong sự trải nghiệm của con người. Với sự thống nhất trong ḍng thời gian của toàn bộ tiến tŕnh ấy, « chủ hướng nghĩa hẹp », như việc cấu thành h́nh ảnh tiềm năng, (ngay cả nơi con người – NHV) vẫn thuộc về vô thức, tiềm thức hay tiền ư thức. Nó không hội nhập được vào sự trải nghiệm đúng nghĩa.

 

Trong việc sử dụng hiện tượng luận để mô tả ư thức, Husserl đă vấp phải một sự kiện có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, có tính cách hoàn toàn đương nhiên, nhưng lại không thể hiểu được bằng sự phân tích có chủ ư. Husserl gọi đó là Hylè : chất liệu không có h́nh dạng, không thể định nghĩa. Cái Hylè ấy biểu thị một dữ kiện vô định, xuất hiện dưới sự trải nghiệm, được ư thức như một hiện hữu hạ tầng, một hiện diện dày đặc, mà người ta không thể chối bỏ, dù không có ǵ để nói về nó (12).

 

Thật ra, đây chính là h́nh ảnh tiềm năng được phóng chiếu một cách có xu hướng nơi loài vật. H́nh ảnh ấy tự nó không có chủ tâm (như Hylè, nó mang trong nó động lực tự bổ xung và hướng đến hành động - NHV). Nó bị xóa nḥa đi một cách bí ẩn trước tuyến khởi phát của ngôn ngữ và ư thức. H́nh ảnh ấy là trung gian không chủ ư, nhưng sẽ đưa đến chủ tâm hành động cùng với sự  xuất hiện  của con người trong ḍng tiến hóa.

 

Ở điểm mà chúng ta đă đạt tới, h́nh ảnh tiềm năng được phóng chiếu có thể đoán biết được, nhưng không thể phân tích bằng sự hiểu biết trí năng của sinh học thực chứng. Thật vậy, chỉ có thể nắm bắt h́nh ảnh ấy bằng sự « hiểu biết cảm thông ». Sự hiểu biết này dựa trên những thu đạt của khoa học thực chứng để phân tích sự hội nhập thời gian của chúng.

 

 

X

X      X

 

 

Chúng ta đă thấy là sự hội nhập thời gian bao gồm bước chuyển bao hàm đối kháng của Hiện Tại Sinh Động, từ quá khứ đến tương lai, để « trôi chảy, chảy đi, và đến với sự chảy đi », điều mà Ilya Prigorine gọi là « mũi tên thời gian ».

 

Một cách chính xác hơn, Husserl gọi đó là sự trôi chảy luôn được đổi mới, từ tồn đọng trong bối cảnh Lúc Này, đến hướng tiền như áp lực dẫn sang tương lai sắp hiện lên. Bước chuyển bao hàm đối nghịch ấy cho ra mâu  thuẫn nội tại của hiện hữu trong thời gian, cội nguồn, vào mỗi lúc, của sự vận động tự thân của nó, để thành tựu trong tương lai sắp hiện đến, khiến cho nó chuyển từ chính nó sang sự hiện hữu ở giây lát tiếp theo.

 

Các chuyển động nối tiếp nhau xác định ḍng thời gian, trong đó các cá thể đơn giản sản sinh rồi tự cấu thành nên những cá thể phức hợp.

 

Ở đây sự lưu chuyển bao hàm đối nghịch, khởi đi từ tồn đọng trong bối cảnh Lúc Này đến áp lực hướng tiền để hội nhập vào tương lai sắp hiện đến, trở nên phức tạp. Trong thí dụ của động vật đa bào, bước chuyển hay sự trôi chảy bao hàm đối nghịch ấy chứa đựng một sự chuyển hướng chia thành ba thời kỳ :

 

1)      thời kỳ vận động trương lực với những h́nh ảnh mang xu hướng

2)      thời kỳ phóng chiếu các h́nh ảnh tiềm năng

3)      thời kỳ hoàn tất của tiền tŕnh trương lực trong động tác từng kỳ

 

Sự phóng chiếu mang xu hướng của h́nh ảnh tiềm năng ra ngoài, vào môi trường chung quanh,  cũng kéo theo sự phóng chiếu h́nh ảnh tiềm năng vào trong, đến « tự thân » (9). Sự phóng chiếu vào trong này bao gồm các dữ kiện « nhận cảm trong » (intéroceptif) và « nhận cảm bản thể » (proprioceptif). Chúng được xử lư bởi bộ phận thần kinh trung ương rồi phóng chiếu một cách tiềm tàng vào « tự thân » (9), trên nền tảng của sự căng thẳng trương lực, để tạo nên « tập hợp h́nh ảnh diễn đạt cảm xúc ». Nó tương liên với tập hợp h́nh ảnh được phóng ra môi trường chung quanh, gọi là « tập hợp h́nh ảnh đề xuất ».

 

Tương quan giữa « đề xuất » và « cảm xúc » cho phép chúng ta hiểu được một hành vi mới : đó là tṛ chơi. Mèo chơi với chuột. Tṛ chơi gắn liền với cảm xúc khi súc vật bắt đầu sống tập đàn, và dần dần phát triển khả năng sống thành xă hội, với tŕnh độ cao nhất được thấy nơi loài khỉ.

 

Sự chuyển biến từ tính kết hợp các tế bào của động vật đa bào, đến xă hội tính nơi các nhóm động vật có xương sống, đánh dấu một tiến bộ mới trong sự hội nhập thời gian của lịch sử thế giới. Từ các thời kỳ kết hợp (giữa các tế bào kết thành sinh vật đa bào - NHV), sử tính của thế giới tiến lên những thời kỳ của liên đới, của chế ngự và hợp tác, rồi đến sự phát triển của tṛ chơi qua  đối tượng trung gian, bước sang việc sử dụng khí cụ tự nhiên, cho đến sự sắp đặt và chế biến các đồ dùng cơ bản (13).

 

 

Trần Đức Thảo

12-4-1993

 

Lời Cuối :

 

Chỉ trong vài trang chữ, chúng ta đă đi qua một quăng đường dài với Trần Đức Thảo. Khởi đầu bằng một phương pháp lư luận, ông dẫn chúng ta « hội nhập thời gian », để hiểu được sự chuyển động của một hiện hữu trong thời gian. Rồi ông đưa chúng ta vào trong mỗi hiện hữu, để chỉ ra cá tính của nó, luôn tồn đọng, dù không ngừng chuyển biến, bất kể nó là một hạt cát, một sinh vật, hay toàn vũ trụ. Sau hết, v́ hiện hữu mang tiềm năng kết hợp với nhưng hiện hữu khác, làm thành những cá thể phức hợp, những hệ thống bao gồm nhiều tầng lớp, từ con sứa đến xă hội loài người, nên Trần Đức Thảo mời gọi chúng ta quay về quá khứ, t́m hiểu bản thân của tính kết hợp, qua những nền tảng đơn sơ nhất của nó. Từ thời buổi xa xưa ấy, những trang sử ly kỳ của Thiên Nhiên được lật nhanh, cho đến sự xuất hiện của xă hội tính và nhân tính, vạch ra một tiến tŕnh từ sự co thắt cho đến các hành vi được ư thức nơi mỗi người chúng ta.

 

Luận Lư Hiện Tại Sinh Động đă là ánh sáng chiếu soi cho chúng ta trên suốt con đường ấy, khiến chúng ta có được một cái nh́n nhất quán về lịch sử của Thiên Nhiên từ nguyên thủy cho đến hiện tại, với tất cả nhưng ǵ con người đă, và sẽ, biết được.

 

Nguyễn Hoài Vân

02 tháng 12 - 2012

 

-----0-----

 

Chú thích của người dịch :

 

(1)   Giây lát là mấu chốt của quan điểm thời gian của Aristote. Giây lát phân chia ḍng chuyển động, thành trước và sau. Mặt khác, hai giây lát, một trước một sau, cho ra một khoảng thời gian, có thể đo lường được bằng một con số.

(2)   Thuyết nhân quả, trong dạng đơn giản nhất của nó, quan niệm những tương quan theo một đường thẳng, theo kiểu : « v́ có A, nên có B ». Nó có thể trở thành phức tạp hơn một chút : « v́ có A, hay A’, nên có B ». Tuy nhiên, ít khi nào hệ quả lại không tác động ngược lại trên nguyên nhân, theo mô h́nh : « A cho ra B, B cho ra A’, A’ cho ra B’ v.v... » dẫn đến « nhân quả xoay tṛn », trong thực tế là những ṿng xoắn ốc. Nếu các « ṿng » ấy có thể tự xoay chuyển, bất chấp những yếu tố khác, th́ người ta có một « hệ thống nhân quả ». Nhưng nếu hệ thống phải chịu ảnh hưởng của những yếu tố bất định do môi trường, hoàn cảnh bên ngoài ... ảnh hưởng vào, th́ hệ thống nhân quả ấy trở thành phức biến (mà không thành một hệ thống lớn hơn, với nhiều yếu tố hơn, v́ các yếu tố vừa nêu được coi như « bất định », đi  ngược lại với tính « phân định », phải có, của « nhân quả »).

(3)   Theo Sartre, l’Etre en soi - hiện hữu tự thân - là sự hiện hữu bị quy định : cây soài chỉ có thể « làm » cây soài, Đạt Lai Lạt Ma « làm » Đạt Lai Lạt Ma ... nên cũng có thể được dịch là « hiện hữu thường hữu », với ư nghĩa nó bị g̣ bó không thể thay đổi. L’Etre pour soi - hiện hữu vị kỷ, c̣n có thể được dịch là « hiện hữu tự hữu », tức là sự hiện hữu do « tôi » chọn lựa, như Đạt Lai Lạt Ma có thể chọn nhảy rock, mặc dù nhảy rock không thuộc về « hiện hữu tự thân » của một Đạt Lai Lạt Ma. L’Etre pour l’autre - hiện hữu vị tha - là sự hiện hữu tùy thuộc vào người khác, v́ cái nh́n của người khác ngăn cản tôi làm những ǵ tôi chọn lựa (Sartre : « địa ngục là kẻ khác »), hay v́ cái nh́n của họ phản chiếu lại h́nh ảnh về tôi mà tôi muốn họ nhận thấy (Ricoeur), hay v́ ư thức nhân bản chính là ư thức trách nhiệm đối với tha nhân (« nhân bản qua tha nhân » - Levinas), nên cần sự đối diện với một tha nhân cụ thể để hiện hữu. Trong một dịp khác tôi sẽ khai triển những ứng dụng của Luận Lư Hiện Tại Sinh Động trong các vấn đề được nêu lên trong đoạn này.

(4)   Khoa học là « thực tế có giá trị tổng quát ». Thí dụ như định luật Boyle Mariotte : P x V = hằng lượng. Định luật này áp dụng cho tất cả các chất hơi, ở bất cứ đâu, bất kể đang hiện hữu, đă hiện hữu, hay sẽ hiện hữu. « Xe ḿnh hết xăng » cũng là một thực tế, nhưng nó chỉ áp dụng cho một trường hợp cá biệt (xe ḿnh), vào một thời điểm giới hạn, nên không thể là « khoa học ». « Thực tế khoa học » là một thực tế không hiện hữu. V́ không có ǵ hiện hữu được trong tổng quát. Mọi sự vật cụ thể đều hiện hữu tại một nơi chốn, trong một thời gian rơ rệt. Mặt khác, cách nh́n tổng quát không cho phép phân tích tường tận một hiện hữu cá biệt, nên trên quan điểm của khoa học, th́ hiện hữu là cái không thể định nghĩa được một cách toàn diện : « Omne individuum ineffabile ». Vấn nạn này đưa đến một khó khăn khác, khi buộc phải công nhận là người ta  đạt đến quy luật khoa học với giá trị tổng quát của nó  bằng sự quan sát các trường hợp cá biệt. Tức là đi từ hiện hữu đến không hiện hữu, từ cái « không thể là khoa học » (v́ tính cá biệt), để xây dựng nền tảng của khoa học (mang tính tổng quát) !

(5)   Luận lư h́nh thức, mô tả « h́nh thức » suy tư làm sao cho đúng đắn, chứ không nhằm vào những đối tượng cụ thể của suy tư. Nó như một loại « văn phạm » của tư duy. Văn phạm không cần biết anh nói lời yêu thương hay mắng chửi. Nhưng, trong mọi trường hợp, anh đều phải tuân theo những quy luật của nó. Luận lư tiên nghiệm nhằm vào những phạm trù tàng ẩn đàng sau các nhận thức thông thường. Khi nói « con ngựa trắng lớn » th́ đằng sau đó, đă phải có sẵn khái niệm động vật với những phân chia theo loài, giống v.v... đồng thời với khái niệm về tính chất (lớn, trắng). Nếu tôi nói « một con ngựa trắng trong nhiều con ngựa đen » th́ đàng sau đă phải có sẵn các khái niệm đơn vị, số ít, số nhiều, cá thể, toàn thể v.v... Tức là đối với những cảm thọ thông thường th́ các khái niệm ấy đă được « nghiệm » trước (tiên nghiệm). Ở đây, Husserl tách khỏi quan điểm của triết học thời ông, đặc biệt là quan điểm của Kant, khi ông từ chối coi luận lư h́nh thức như tự nó  không có đối tượng  (chỉ có h́nh thức, không có nội dung), cũng như phủ nhận việc cho là luận lư tiên nghiệm chỉ có đối tượng là các phạm trù biểu trưng cho những ǵ có thể « nghiệm » được bằng cảm quan. Husserl cho rằng luận lư h́nh thức có thể có đối tượng là những khái niệm thuần túy. Ta thử lấy công thức : « A cho ra B, vậy phải chăng không B cho ra không A » ? Tức là ta đă biến công thức này thành một đối tượng luận lư, có thể phân tích, sử dụng cách này, cách kia, mặc dù nó chỉ là khái niệm thuần túy. Mặt khác, luận lư tiên nghiệm không chỉ là vận dụng những « phạm trù biểu  tượng cho thực tại » nữa, mà là đạt đến những khái niệm trừu tượng qua tư duy thuần túy. Nói cách khác, luận lư tiên nghiệm, đối với Kant, là đưa các phạm trù biểu tượng cho thực tế vào Luận Lư H́nh Thức để giới hạn Luận Lư H́nh Thức trong thực tại. C̣n đối với Husserl th́ luận lư tiên nghiệm là nền tảng để đi lên phạm trù khái niệm từ Luận Lư H́nh Thức. Trước một khái niệm, thay v́ đặt câu hỏi « đối với tôi nó biểu tượng cho cái ǵ trong thực tế » (tức từ khái niệm « đi xuống » thực tại), Husserl tự hỏi : «  tôi hiểu nó như thế nào ? » (tức đặt vấn đề ư nghĩa thay v́ biểu tượng, cũng là « đi lên » một khái niệm cao hơn, « tiên nghiệm » hơn).  Luận lư tiên nghiệm, như thế, không cách biệt với luận lư h́nh thức, mà là khởi điểm của luận lư h́nh thức. Để rồi, với Luận Lư « Tiên Nghiệm và H́nh Thức », người ta có thể « hiểu » tự thân sự vật qua một sự « hiểu biết cảm thông » như sẽ được bàn đến ở sau.

(6)   Individualité” (cá tính) khi được dùng để chỉ một hiện hữu cụ thể, th́ được dịch là cá thể. V́ khi ấy, cái « tính » được nh́n qua « thể », và dùng cái « thể » này để tượng trưng cho nó. Cũng tương tự như chữ « personnalité » (cá tính của một người) được dịch là « nhân vật » khi chỉ những con người cụ thể (« personnalités » politiques =  « nhân vật » chính trị).

(7)   Hiểu biết cảm thông” -“Connaissance compréhensive”- là hiểu biết xây dựng trên trực giác, chú trọng vào sự cảm thông, thay v́ giải thích. Vấn đề của nó không phải là nhận biết các dữ kiện mà là cảm thông ư nghĩa của các dữ kiện ấy. Khi đă được hấp thụ đúng mức, th́ « biện chứng sinh học hội nhập thời gian » ảnh hưởng như một phương pháp « tiên nghiệm » (xem chú thích 5) nâng các dữ kiện sinh học lên tŕnh độ ư nghĩa, có thể cảm thông trực tiếp, mà không cần phải phân giải bằng trí năng nữa.

(8)   Sự thống nhất của cặp mâu thuẫn “tồn đọng - hướng tiền” bao giờ cũng thể hiện thực tại, tức cái hiện trạng trong lúc này. Trong trường hợp sinh vật mà ta đang quan sát, cái “hiện trạng lúc này” ấy là sự co thắt. Hiện trạng ấy tổng hợp hai “tiến tŕnh chuyển biến bao hàm đối nghịch”, do sự phân chia cấu trúc “thần kinh - cơ” của nó thành hai loại, trương lực và từng kỳ. Tương tự như thế, sự đối kháng giữa hai phạm trù “tồn đọng” và “hướng tiền” triệt tiêu cái thực tại vừa nói, tức sự co thắt, để cho ra giai đoạn thư giăn, nghỉ ngơi, như TĐT sẽ nói tiếp ở câu sau.

(9)   Tự Thân” (corps propre), là một khái niệm được mô tả ra bởi một số triết gia như Merleau Ponty (Phénoménologie de la Perception), để chỉ h́nh ảnh chủ quan của thân thể. Nó cho ra cảm giác “chính ḿnh”, “là ḿnh”, “tự ḿnh” cùng với những ǵ “ḿnh” có thể làm, hay có thể cảm nhận.

(10)                      Như Trần Đức Thảo đă phân tích trong nhiều tài liệu, nơi trẻ nhỏ, tiếng gọi, rồi tiếng nói bên ngoài, khích động sự h́nh thành của tiếng nói bên trong. Tiếng nói bên trong được lập lại rồi khai triển thành suy tư. Với sự suy tư qua tiếng nói bên trong ấy, những cảm giác được ư thức, được trừu tượng hóa, đồng thời với ư muốn, chủ ư  hành động, v.v... Con vật chỉ có “cảm giác bản thân”, để phân biệt những ǵ “thuộc về nó” và “không phải nó”. Cảm giác về “nó” là cảm giác về một sự vật cụ thể, cũng như cảm giác đối với những sự vật “không phải nó”. Nơi con người th́ khả năng trừu tượng hóa làm cho ư thức của hắn không chỉ hướng đến sự vật hay cảm giác cụ thể mà vượt lên phạm trù trừu tượng. Thí dụ con vật chỉ ham muốn một sự vật cụ thể, như thức ăn, đối tượng giao hợp v.v... Trong khi đó, con người, trong sự ham muốn thực sự “người” của ḿnh, th́ ham muốn một h́nh ảnh chủ quan của đối tượng mà ḿnh ham muốn, hoặc ham muốn chính sự ham muốn, như huy chương, bằng cấp, nhà to, xe đẹp, v́ chúng chứa đựng sự ham muốn của người khác, hay khi giao hợp, th́ muốn đối tượng cũng ham muốn giao hợp với ḿnh ... Trong điều kiện ấy, ư thức bản ngă nơi con người cũng hướng vào một “cái tôi” trừu tượng, được cấu tạo qua một “câu chuyện” được thường xuyên cập nhật, mà ḿnh tự kể với ḿnh, đồng thời thể hiện h́nh ảnh mà ḿnh muốn người khác nhận biết nơi ḿnh. Ư thức, như thế, bắt buộc phải có ngôn ngữ. Xem (tiếng Pháp) : http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=167&kind=20 (đoạn “conscience et langage »)

(11)                      Tính chủ thể nơi súc vật được h́nh thành qua tập hợp cảm giác, trực giác, bản năng, của nó. Nơi con người tính chủ thể bao hàm thêm tất cả những ǵ hắn « biết », qua kinh nghiệm, học hỏi, suy tư, v.v... và qua những ǵ hắn dự phóng cho tương lai. Ngôn ngữ ở đây cũng đóng một vai tṛ then chốt, qua chức năng truyền đạt các hiểu biết, suy nghĩ và kinh nghiệm, cũng như xây dựng các dự phóng ... Như Marx đă nhận xét : sự khác biệt giữa một kiến trúc sư kém cỏi nhất và con ong tài ba nhất, là người kiến trúc sư xây dựng công tŕnh của ḿnh trong trí óc, trước khi thực hiện nó trong thực tế. Chúng ta cũng  đă nhận xét (chú thích 10) rằng con người luôn tự kể « tiểu sử » của ḿnh, một tiểu sử không ngừng được phóng chiếu vào tương lai (« tôi là người sẽ ... »), với những cập nhật đều đặn. Tính chủ thể nơi con người thể hiện qua ư thức ḿnh là nhân vật chính của « tiểu sử » ấy.

(12)                      Hylè là chất liệu của cảm giác, trước khi nó được cảm giác, để rồi, từ cảm giác, trở thành tri giác. Husserl đă có những do dự quanh vấn nạn làm thế nào để Hylè trở thành tri giác (sự kết hợp giữa Hylè và Morphè - h́nh thái). Sau cùng, quan điểm của ông là khi hội nhập thời gian, th́, cùng với sự vận động của thời gian qua mâu thuẫn tồn đọng và áp lực hướng tiền, Hylè tự nó mang tính năng khích động cơ thể, đưa đến sự bổ túc các cảm giác đă nhận được bằng những tư thế nối tiếp nhau để tiếp tục thu gặt những cảm giác mới về cùng một sự vật. Như một người vừa đi quanh một bức tượng, vừa nghiêng đầu để nh́n nó dưới nhiều khía cạnh. Đồng thời với những tư thế này, hệ thần kinh liên tục tổng hợp những cảm giác thu nhận được, dựa vào quá khứ, và hướng đến tương lai, làm thành một ḍng tri giác. Như thế, Hylè, tức chất liệu của cảm nhận, tự nó hướng đến Morphe, h́nh thái. Mỗi cảm giác tự nó mang những phương tiện để được nhận thức đầy đủ hơn, và trong mỗi sự vật được cảm nhận trực tiếp đă có sẵn động lực để liên kết chúng thành một tập hợp h́nh ảnh hiểu được, « cảm thông được », của thế giới.

(13)                      Tương tự như « khoảng chân - tua » nơi loài Ruột Khoang, cho ra « vùng phụ cận » ở  các tŕnh độ tiến hóa cao hơn, tṛ chơi phân định một khoảng trống trung gian giữa « trong » và « ngoài » một cá thể. Cá thể ấy có khả năng tác động trên khoảng trống này, như thể thuộc về nó, mặc dù khoảng trống kia vẫn được cảm nhận như bên ngoài nó. Trong tṛ chơi,  nó tác động trên những sự vật trung gian, để tăng cường cảm giác hiệu năng của nó trên khoảng trung gian vừa nói. Điều này cũng làm gia tăng cảm giác tự thân của nó, và là một bước tiến hóa dẫn đến việc phát triển các « trung gian thực dụng », vẫn để tăng cường hiệu năng tác động trên « vùng phụ cận », thường trùng hợp với khoảng trung gian của tṛ chơi. Các « trung gian thực dụng » ấy là các khí cụ lấy trực tiếp từ thiên nhiên, trước khi tiến lên giai đoạn đồ dùng được chế biến.