ĐỌC BỐN DẤU ẤN CỦA HIỆN HỮU

 

Đọc xong bài này ḿnh đă nghĩ ǵ?

Từ hôm đọc xong đến giờ, chắc phải một tuần rồi, vẫn chưa hết…kinh ngạc. Kinh ngạc một cách rất kỳ lạ: không nói nên lời. Chỉ đôi khi ngẫm nghĩ lại, đọc lại, lại nghĩ, và…không nói ǵ cả. Bởi không thể nói ǵ hơn.

 Một đ̣n quá trúng đích, không thể có đ̣n thứ hai. Sự thật sáng trắng như một tờ giấy (chưa viết ǵ), hay như người ta thường ví von so sánh: sáng trắng, trong suốt như ánh sáng (chắc thế), bởi độ minh bạch của nội dung.

Thôi, bây giờ sẽ từ từ viết ra những (điều ǵ đấy) mà ḿnh suy nghĩ về văn bản này, không viết ra không yên, vẫn cứ phải quay lại với nó.

Trước hết: phải cảm ơn người dịch- Hoàng Phong- sao ḿnh không quen biết nhân vật này nhỉ? Một dịch giả thiên tài: dùng từ rất đủ, rất chặt, rất sáng, rất đúng nghĩa, rất đẹp. Một bản dịch tuyệt vời.

1/ Dấu ấn thứ nhất:  Tất cả hiện tượng h́nh thành từ các điều kiện đều vô thường.

Đây chính là đời sống. Nằm trong sự sống, đời sống mang ngay trong bản thân nó giới hạn: sinh-diệt. Nhưng nếu dấu ấn thứ nhất này chỉ in lên đời sống th́ chẳng có ǵ cần bàn căi nữa, nhưng ta đồ rằng tác giả muốn nói đến sự vô thường này cũng nằm ngay trong sự sống, nghĩa là nằm ngay trong sự bất tử vĩnh cửu của tất cả vũ trụ này. Nếu đúng như vậy c̣n tuyệt hơn nữa, bởi đă giải quyết dứt điểm, tuyệt đối luôn cho mọi khả năng hoài nghi của niềm tin. Nếu đúng như vậy, có thể phát biểu thế này: quan niệm này của Phật giáo rất biện chứng, và v́ thế tin được. Đấy là: nh́n tất cả sự vật, sự việc trong ṿng quay, trong sự chuyển động của chính chúng và của ngoại cảnh xung quanh chúng. Và v́ cách tiếp cận này, đời sống (hay rộng hơn: sự sống) không hề độc lập, và cái quan trọng nhất để nhận thức và hiểu không phải về bản thân đời sống hay sự sống mà về các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của sự vật sự việc tạo ra đời sống, sự sống.

Đạo Phật cứ thích dùng từ: duyên để chỉ dẫn đến mối quan hệ tương tác này, để giải thích tại sao những cái”bâng quơ” lại trở nên gắn bó với nhau đến thế, khiến con người –sinh linh bị ràng buộc chặt chẽ với đồng loại của chúng nhất –cứ mừng mừng tủi tủi không biết đâu là thật là giả, đâu là  ảo ảnh, đâu là cái có thật trong đời ḿnh, con người (phần lớn) chỉ ngồi đợi „duyên „ đến, theo kiểu”há miệng chờ sung”, hoặc chỉ dùng”duyên” để giải thích mọi thất bại của đời ḿnh.

 Một trong những lư do của sự lẫn lộn là con người không biết phân biệt đến đâu thuộc lĩnh vực vật chất, đến giới hạn nào thuộc lĩnh vực tinh thần.  Thực chất: cùng lúc có luôn cả hai mặt và nhất thiết cùng lúc phải có luôn cả hai mặt. Phải mang điều kiện đúng như vậy mới làm nên sự CHUYỂN ĐỘNG, và mới có Vô Thường!

Từ đây bắt đầu nảy sinh câu hỏi (muôn thuở) : vật chất có trước hay tinh thần có trước ? Cái nào quyết định cái nào? các triết gia của (cái gọi là) thời kỳ lịch sử căi nhau măi về những điều này. Nếu hiểu thật rơ ư nghĩa nội dung dấu ấn thứ nhất này sẽ thấy: trong cả hai (vật chất-tinh thần) đều không có BẢN CHẤT, đều Vô Ngă, bởi vậy không thể căi lộn nhau về những phạm trù bị cố t́nh tách ra và đặt cho nó một ư nghĩa như một thực thể đứng riêng rẽ, trong khi đó chúng chỉ tồn tại (tạm thời) trong sự chuyển động mà thôi, hết sự chuyển động là chúng hết ư nghĩa, chức phận, vai tṛ…vvv…

Nhưng: chúng có hay không? Có chứ! ta thừa nhận có sự sống và đời sống là ta thừa nhận tất cả các phạm trù, quan niệm về sự vật sự việc nằm trong sự sống, nhưng không được quên, nó chỉ tồn tại trong sự chuyển động của một thực thể Sống, nghĩa là chỉ trong sự vận hành các mối quan hệ của hành động sống đó. Tùy theo mức độ cụ thể của từng ṿng quay, ṿng chuyển động, mức độ ưu tiên của vật chất-tinh thần được đặt lên trước hoặc sau để quyết định sự sống c̣n của hành động.

Từ nhận thức này suy ra: chả có thần thánh nào hết, chỉ c̣n lại con người và mọi sinh linh, thực thể cùng cơi Sống với nó mà thôi. Từ đây nhớ lại một nhận định của Hamvas Béla: chỉ có một sự tương đồng duy nhất và duy nhất mà thôi: đấy là sự sống (trên cao-vũ trụ) và sự sống (dưới trần gian), và chỉ con người là sinh linh duy nhất biết dùng ngôn ngữ, chữ để phát biểu điều này, nên cần nói chính xác hơn: tương đồng duy nhất là: con người Thượng đế và con người cá nhân. Để hiểu được nội dung này cần biết đến và vận dụng phương pháp tiếp cận siêu h́nh học, một thứ phương pháp luận thống nhất duy nhất - Một - cần đến mức độ trừu tượng hóa cao nhất của trí tuệ người để dựng lên nổi phương pháp luận này.

Đến đây người ta sẽ hỏi: vậy những thứ này ở đâu ra? ḿnh sẽ trả lời: từ tri thức thần học. Nó là cái ǵ vậy? ít nhất, với ḿnh, biết về nó quá ít ỏi, hoặc ḿnh biết chưa đủ, chưa đến đầu đến đuôi để hiểu được thần học ở châu Á và châu Âu thật sự đầy đủ là như thế nào? Ḿnh mới chỉ phát hiện ra: ở châu Á thần học nằm trong lối sống và ở châu Âu, nằm trong tri thức.

Rất có thể, phát hiện về bốn dấu ấn của hiện hữu ở đạo Phật là nội dung thần học lớn nhất ở châu Á, và lớn nhất của nhân loại về vũ trụ và con người, giống như Ki tô giáo là nội dung lối sống lớn nhất của châu Âu trong thần học. Có thể thế chăng? ( 2015. május 25.)

2/ dấu ấn thứ hai: Tất cả những ǵ giả hợp đều là khổ đau.

Ḿnh cứ suy nghĩ măi về từ khổ đau- có thể thay thế bằng từ ǵ đây:  sự chịu đựng, đành chấp nhận hay kiên nhẫn sống? Bởi v́ từ khổ đau, như thế nào đấy không chứa hết được hệ quả của vô thường . Tất nhiên nhận thức ra hay không đều bắt buộc phải có hệ quả này, bởi theo suy luận của ḿnh, phạm trù cuối cùng: an tịnh, sự tĩnh lặng không là ǵ khác ngoài cái Chết, hiểu như một sự ngừng ṿng quay, ngừng chuyển động.

Có lúc ḿnh đă ngẫm nghĩ và cho rằng: khổ đau ở đây muốn chỉ ra một trạng thái bất lực chờ đợi cái chết, cái tan ră của đời sống, phải chăng? Nếu đúng thế, không chỉ dùng từ khổ đau, mà c̣n có thể dùng những từ khác như thích nghi, chịu đựng, thậm chí  tạo khả năng, t́m khả năng…. Khổ đau ở đây vừa mang tính chất dương và âm, tích cực và tiêu cực, chủ động và thụ động.

Ḿnh c̣n nghĩ rằng: buồn chán chắc chắn là trạng thái vô thức của khổ đau. Con người liên tiếp thi hành, thực hiện”đời ḿnh” theo các nhu cầu sống: học hành, lấy vợ lấy chồng, đẻ con, tạo dựng vật chất…tóm lại thực hiện cuộc đời theo quy tŕnh kinh nghiệm của kẻ khác được đặt cái tên mỹ miều là Văn Hóa, để quên đi cảm giác tiến gần đến cái Chết, đến cái tan ră, cái( gọi là) an tịnh, vậy thôi. Vừa dừng sự hoạt động để quên đi khổ đau (vô thức) này là sự buồn chán và các cảm giác khác ẩn dấu dưới nhiều tên gọi khác nhau sẽ xông đến ngay, bởi vậy ai cũng làm( hành động sống) như ai và thường không hiểu khổ đau là cái ǵ.

Trong phần này có một phạm trù rất đặc sắc: trong năm uẩn có một uẩn gọi là szamszara, ḿnh hiểu là sự luân hồi, là sự tạo nghiệp. Mới gần đây nhất, bất ngờ ḿnh nhận ra: luân hồi là sinh con đẻ cái ngay khi”chủ thể” vẫn đang sống, thế nên đi tu muộn mằn cuối đời để tránh luân hồi thật nực cười!

3/ dấu ấn thứ ba: Tất cả mọi hiện tượng đều không có cái ngă

Theo ḿnh hiểu vô ngă nghĩa là không có bản chất, bởi vậy mới vô thường, mới là ảo ảnh.  Mà không có ngă nghĩa là không có ư nghĩa ǵ, bởi vậy bám vào nó mới khổ đau v́ hụt hẫng, vỡ mộng.

4/ Dấu ấn thứ tư: Niết bàn là an tịnh

An tịnh ở đây là cái chấm dứt, cái hết, cái không chuyển động (thậm chí không sống). Tất sẽ có b́nh an. Và tất yếu phải có b́nh an ở nơi chấm dứt sự sống. Câu hỏi đặt ra ở đây là: sau cái chết thân xác, linh hồn (vĩnh cửu) nếu có sẽ đi đâu?

Ḿnh nghĩ là cuộc sống tinh thần của một cá nhân được lưu lại trong dấu tích (bất kỳ h́nh thức ǵ) đều có thể gọi đó là linh hồn c̣n lại trong (cái gọi là) văn hóa người. Và c̣n lũ người là c̣n văn hóa người nên linh hồn cũng vẫn c̣n đấy.

Trong lời dạy này của Phật lư thú nhất là ở đây: niết bàn là nhận thức ra cái chết bằng tri thức tinh thần, nên con người có thể biết về cái chết ngay khi nó chưa chết.

Điều này có liên quan ǵ đến trí tưởng tượng không? Muốn trả lời cần phải nghĩ rằng: toàn bộ đời sống tinh thần của con người là một sự tưởng tượng. Là khả năng”siêu nhiên” chưa giải thích nổi của con người, dù đă có phương pháp siêu h́nh học  để tiếp cận. Đành bằng ḷng với câu trả lời của bác Hamvas Béla: chỉ bằng analog-phương pháp đồng nhất mới có cách để lư giải con người và vũ trụ quanh ta.

5/ Toàn bộ những ǵ nói về nhận thức Phật giáo gói gọn vào mấy ḍng sau đây:

“Nếu ai không đủ sức chấp nhận mọi hiện tượng cấu hợp và tạo tác là vô thường, đồng thời vẫn c̣n tin tưởng có một thực thể hay một khái niệm nào đó trường tồn và bất biến, th́ kẻ đó không phải là một Phật tử.

Nếu ai không đủ sức chấp nhận tất cả mọi xúc cảm là khổ đau, đồng thời vẫn tin tưởng có những xúc cảm mang bản chất hoàn toàn êm ái, th́ kẻ đó không phải là một Phật tử.

Nếu ai không đủ sức chấp nhận tất cả mọi hiện tượng là ảo giác và trống không, đồng thời vẫn tin là một thứ ǵ đó hiện hữu một cách tự tại, th́ kẻ đó không phải là Phật tử.

Nếu ai tin tưởng là sự giác ngộ hiện hữu qua những kích thước của thời gian và không gian bằng quyền lực của một sức mạnh thiêng liêng, th́ kẻ đó không phải Phật tử”.

 Tuyệt! ngắn gọn về con người và thế gian này: không có ǵ hết ngoài SỰ SỐNG, đồng thời cũng chính là CÁI CHẾT, hai đầu của một quá tŕnh chuyển động liên tục, chấm dứt liên tục, tái hiện và cũng tái biến liên tục bằng sự biến thiên „thiên h́nh vạn trạng”của một thực thể  mang tên CON NGƯỜI trong sự lặp lại liên tục của (cái gọi là) văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của nó. Thế thôi.

Nguyễn Hồng Nhung- Budapest. 2015. május 26.