LichSuTuTuongTDThaơ12-1

   PHẦN THỨ MƯỜI HAI

*

 TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

 TỪ KANT ĐẾN HEGEL

   

 

 

Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là thành tích cao nhất của tư tưởng cận đại trước Marx. Triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh, kinh tế học Anh, đó là ba nguồn gốc chính của chủ nghĩa Marx.

 

Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hegel

 

Marx lấy lại của Hegel phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ Marx thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong biện chứng pháp của Hegel đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Hegel đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hegel lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của tinh thần.

 

Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel lại nắm được cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu được điểm này thì cần phải xét đến nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel.

 

Nguồn gốc lịch sử chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel

 

Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức từ Kant; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong - hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.

 

Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan.

 

Trong bản đề án về Feuerbach[1] gồm 11 điểm, Marx viết rằng trong chủ nghĩa duy vật trước kia người ta chỉ nắm được vật chất về phần tĩnh của nó, tức là trong phạm vi nó được phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con người. Còn phần hoạt động thì chủ nghĩa duy vật cũ chưa nắm được. Vì vậy nó chỉ được đề cao trong phạm vi tinh thần, duy tâm. Nhưng tương đối với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc đề cao này cũng đã là một bước tiến bộ. Vì lao động tinh thần được nêu lên đó cũng phản ánh được phần nào phương thức sản xuất mới, và thực ra nó cũng bắt nguồn từ lao động thực sự.

 

Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.

 

Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.

 

Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte[2] đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.

 

Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái «tôi»  và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).

 

Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.

 

Với Schelling[3], phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa. Phương pháp mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và bao gồm cả tự nhiên. Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự nhiên xuất phát là từ cùng một nguồn gốc: đó là «Tuyệt đối». Tự nhiên không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách quan không nằm trong chủ quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối.

 

Tư tưởng của Schelling đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ lung tung sau khi chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một cách lung tung.

 

Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó, và xây dựng một chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu cầu mới đó được phản ánh trong triết học của Hegel.

 

Triết học của Hegel vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn. Phương pháp của Hegel phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hegel lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là ở chỗ đó.

                

 

NỘI DUNG

TRIẾT HỌC HEGEL

   

 

Tác phẩm Hegel có 2 cuốn chủ yếu:

   

1. Hiện tượng luận của tinh thần

2. Luận lý học.

 

Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tượng của tinh thần và cuốn dưới nói về hệ thống phạm trù. Nhưng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu tượng như của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hegel không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được và trình bày theo quá trình biện chứng của nó, nhưng trước khi đi đến trình độ đó, phải thanh toán những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái niệm, chưa thực hiện lý luận triết học. Hegel phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hegel.

 

*

*   *

 

Trong cuốn Hiện tượng luận của tinh thần (Phenomeno- logie des Geistes), Hegel phê phán mọi tư tưởng triết học trước đó, qua mọi hình thái ý thức theo quá trình biện chứng của nó cho đến luận lý học của Hegel, tức là biện chứng pháp duy tâm mà Hegel quan niệm.

 

Cuốn hiện tượng luận của tinh thần có tám chương:

 

Ch. 1 - Ý thức cảm giác

Ý thức nhằm đối tượng

Ch. 2 - Tri giác

Ch. 3 - Trí tuệ

Ch. 4 - Ý thức bản ngã

Ý thức bản ngã

Ch. 5 - Lý tính

Ý thức bản ngã phát triển

Ch. 6 - Tinh thần

 

Ch. 7 - Tôn giáo

Ý thức bản ngã của tinh thần                           

Ch. 8 - Khoa học tuyệt đối

 

   

Chương I - Ý THỨC CẢM GIÁC

 

Ý thức cảm giác là cái ý thức nhằm cái trước mắt: cái này, ở đây, bây giờ. Theo ý tứ của nó thì nó nắm được thực tại tuyệt đối. Thường những chủ nghĩa chống triết học duy tâm dựa vào cái mà tôi nắm ở đây, bây giờ, để mà phê phán những lý luận cao siêu của các triết gia. Chúng ta phân tích nội dung thực tế của cái ý thức cảm giác ấy.

 

1) Phân tích đối tượng của ý thức cảm giác:

 

Cái này, ở đây, bây giờ là cái gì? có nhắc đến thế giới không?

 

Xét theo nội dung thì nó luôn luôn biến chuyển vì thế «tôi»  không nắm được gì hết. Thực tế, ta chỉ nắm được cái đại thể: lúc nào cũng là lúc bấy giờ, chỗ nào cũng là ở đây, cái gì cũng là cái này. Vậy ta không nắm được cái cá thể. Chủ nghĩa cảm giác có thể trả lời: Đối tượng biến chuyển luôn luôn, nhưng vẫn là tôi nắm nó.

 

2) Xét cái tôi ấy là gì?

 

Tôi nhằm cái này. Cái tôi nhằm như vậy tưởng là vững chắc, nhưng bên cạnh có người khác cũng nhằm cái này, vì ai cũng là tôi cả nên tôi ấy vẫn là đại thể. Cho nên ý thức cảm giác cũng không căn cứ được vào cái tôi cá thể.

 

3) Quan hệ giữa chủ quan và khách quan

 

Chủ quan cũng như khách quan không phải là cá thể. Vậy quan hệ giữa chủ quan và khách quan có phải là cá biệt không?

 

Phân tích quan hệ ấy trong cảm giác thì chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cái thái độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối tượng trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái đại thể. Khi tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút, v. v... Vậy quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.

 

Kết luận là ý thức cảm giác tưởng là nắm được một cá biệt rất là vững chắc. Nhưng thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhưng nó không nắm được cái mà nó phải nắm là cái đại thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác - chủ nghĩa kinh nghiệm - chống lại chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không do kinh nghiệm trực tiếp mà nắm được, mà phải do khái niệm mới nắm được. Hegel phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật.

 

Phê phán:

 

Lập luận này nổi tiếng vì nó thanh toán chủ nghĩa kinh nghiệm từ bên trong. Bước đầu thì công nhận nó, nhưng phân tích thì thấy nó tự mâu thuẫn với nó. Biện chứng pháp Hegel nêu mâu thuẫn nội tại trong khái niệm.

 

Nhưng nói rằng tôi không nắm được cái này, bây giờ, ở đây, thế thì giả sử rằng chúng ta đã có một ý thức hiểu biết cao hơn, cho phép chúng ta phê phán cảm giác.

 

Chính Hegel cũng phải nhận điều đó. Lập luận của Hegel là lộn ngược: cái trước đi sau, cái sau đi trước, nói rằng phải có cái đại thể rồi ta mới có cái cá thể. Nhưng làm sao ý thức tự nó cảm giác có thể tự phê phán được? Muốn phê phán thì phải có cái cao hơn ý thức cảm giác, vì tự nó thì ý thức cảm giác bao giờ nó cũng ở trong phạm vi cá thể. Ít nhất ta phải có cái khả năng định nghĩa rồi thì chúng ta mới biết cái này, ở đây, bây giờ là tất cả cái này, ở đây, bây giờ. Do đó chúng ta mới phê phán được. Hegel lại cho rằng chính cái ý thức cảm giác tự nó phê phán nó.

 

Đi sâu hơn trong lịch sử tinh thần, chúng ta đã có lúc chỉ có ý thức cảm giác. Đến lúc nào đó chúng ta mới nắm được đại thể. Từ ý thức cảm giác đến khái niệm đại thể, phải qua một quá trình. Trong đời sống động vật, con vật chỉ nắm được cái trước mắt thôi. Đến lúc có kỹ thuật sản xuất, chúng ta mới có một phương thức hoạt động nhất định được lặp lại nhiều lần, do đấy chúng ta nắm được cái đại thể. Đại thể đây căn bản là kỹ thuật sản xuất cũng có ý nghĩa đại thể.

 

Có kỹ thuật sản xuất mới có ngôn ngữ, tức là nội dung mình nói. Mỗi chữ là một ý nghĩa đại thể. Trong quá trình lịch sử của người ta có một biện chứng pháp thực tế, duy vật thông qua hành động vật chất của người ta, gây ra mâu thuẫn trong ý thức cảm giác đó, phải có mâu thuẫn trong thực tế. Hegel đã đảo ngược quá trình biện chứng duy vật thành quá trình duy tâm. Ông phản ánh một cách trừu tượng và hạn chế (giới hạn nó trong tinh thần) đảo ngược (đáng lẽ phải đi từ vật chất đến tinh thần thì lại đi từ tinh thần đến vật chất).

 

Chương II - TRI GIÁC

 

Ý thức cảm giác tự nó mâu thuẫn với nó. Tri giác là ý thức nắm đối tượng với thuộc tính đại thể của nó. Cái bàn với hình thể, màu sắc, trọng lượng. Những thuộc tính ấy định nghĩa cái nội dung thực tại của đối tượng khách quan. Trong tri giác tôi đã nắm được nội dung chân chính của đối tượng. Tôi đã định nghĩa được rồi. Nhưng phân tích cái nội dung ấy, chúng ta thấy có mâu thuẫn giữa thuộc tính với vật thể cá biệt. Nếu thực chất của nó là thuộc tính đại thể thì tôi không nắm được cái gì cá biệt cả. Ví dụ: Tôi nói cây này màu xanh, nhưng xanh này lại khác xanh của các vật khác.

 

Thành ra trong tri giác vẫn có mâu thuẫn, và do đó bước đầu phải trở lại cảm giác. Những thuộc tính lại trở lại cá biệt mà không phải là đại thể nữa. Nhưng trong cảm giác ấy lại có mầm mống để phát triển nội dung theo chân lý của nó. Là vì nếu chúng ta đặt thuộc tính ấy là thực tế khách quan. Nếu có gì thiếu sót thì ta cho nó là của chủ quan. Vì sai lầm chủ quan cho nên tưởng thuộc tính của nó lúc thế này lúc thế khác, nhưng khách quan thì vật thể có thuộc tính nhất định của nó. Nếu cho rằng sai lầm là chủ quan của ta, thì chúng ta đã đặt được chân lý ở vật thể tri giác. Nhưng mọi vật thể lại liên quan với nhau: nội dung chân chính của vật thể là do quan hệ của nó với vật khác. Quan hệ có thể hiểu biết được, quan hệ lý tính chứ không phải cái này, cái kia với những thuộc tính của nó. Mâu thuẫn đó đưa đến một hình thức cao hơn, tri giác, tức là trí tuệ có thể hiểu biết, tính toán ngoài cảm giác.

 

Phê phán:

 

Chương này là một lập luận chứng minh rằng chân lý không do cảm giác hay tri giác mà do trí tuệ. Nó nhằm đánh đổ chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật. Nhưng trong nội dung chân chính của nó có phải là nó đánh đổ duy vật không? Có phải tri giác trong quá trình mâu thuẫn tinh thần tự nó phủ định nó mà lên trí tuệ không? Sự thực Hegel đã phản ánh một sự thực. Trong lịch sử tinh thần một lúc nào đấy, người ta đã định nghĩa thực tế khách quan bằng những quan hệ toán lý. Bắt đầu từ văn hóa phục hưng, người ta đã không định nghĩa bằng thuộc tính tri giác mà bằng những quan hệ toán lý.

 

Sở dĩ khoa học cận đại đã phải định nghĩa thực tế khách quan bằng toán lý vì trong thực tế gặp nhiều mâu thuẫn. Nếu chỉ dựa vào thuộc tính thì không thể đi đến một hệ thống duy lý.

 

Hegel đã phản ánh một nội dung lịch sử có thật. Nhưng vì đâu có sự chuyển biến từ tri giác lên trí tuệ, bắt đầu thời khoa học phục hưng.

 

Những mâu thuẫn ấy không phải do tinh thần mà do thực tế biến chuyển của cơ sở sản xuất. Với tổ chức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những công trường thủ công, chính cái đối tượng là những vật liệu, những sản phẩm được sắp xếp theo những quan hệ của nó; tổ chức sản xuất không nhằm sản xuất một vật thể với thuộc tính này hay thuộc tính kia, nó phải phối hợp vật này hay vật kia trong một quá trình biến chuyển cơ giới.

 

Ví dụ như dệt vải: nếu theo kiểu thủ công, nó có những phường kéo sợi, phường nhúng sợi, chải sợi, nhuộm, dệt... Mỗi một phường ấy nhằm một sản phẩm nhất định, một số thuộc tính nhất định, chứ nó không nhằm quan hệ giữa các sản phẩm từ trình độ này lên trình độ khác. Trái lại, ở công trường nó có trải qua một số trạng thái kế tiếp nhau một cách duy lý. Quá trình sản xuất được theo những quan hệ giữa trạng thái này với trạng thái kia.

 

Vấn đề: từ dây thép đến cái đinh phải qua một số hình thái nhất định.

 

Chính sách sản xuất ấy cung cấp một hiểu biết theo trí tuệ. Đấy là nguồn gốc khoa học cận đại. Hegel phản ánh một cách trừu tượng quá trình sản xuất ấy. Do tính chất trừu tượng hẹp hòi nên ý nghĩa biện chứng pháp đã bị đảo ngược. Ý nghĩa đó là quá trình thay đổi vật chất quy định hình thái ý thức. Hegel chỉ thấy cuộc biến chuyển trong phạm vi tinh thần. Theo Hegel, nội dung chân chính chỉ là quan hệ trí tuệ phủ định vật chất. Nhưng trong biện chứng pháp Hegel có một hạt nhân duy lý tức là phương thức vận dụng mâu thuẫn, một nội dung căn bản duy vật mà Hegel xuyên tạc, duy tâm hóa.

 

Chương III - TRÍ TUỆ

 

Với trí tuệ, chúng ta nắm được chân lý cao, nhưng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy lại tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể hiểu biết được ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí tuệ, chúng ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một thế giới siêu giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính ngoài chúng ta.

 

Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhưng quan hệ toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý thức. Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta tưởng là ở ngoài ta.

 

Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tượng khách quan mâu thuẫn với nội dung đối tượng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan. Thế giới khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã,  và chính thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hegel đã đi thêm một bước nữa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm.

 

Phê phán:

 

Lập luận biện chứng này là gì?

 

l) Thực tế trong lịch sử loài người, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế giới khách quan bằng toán lý. Nhưng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế giới vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần chủ quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhưng hoạt động tính toán của chúng ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong kinh nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính toán chỉ là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình lao động máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới vật chất.

 

2) Đến trình độ trí tuệ, Hegel nói chính đối tượng ý thức ấy là mình (ý thức biến thành ý thức bản ngã).

 

Điểm này cũng phản ánh một hiện tượng thực tế. Vì ý thức bản ngã là gì? làm sao mà tôi có ý thức bản ngã được.

 

Trong quá trình lịch sử, ý thức bản ngã phát triển với hoạt động sở hữu hóa. Tôi là tôi có của. Quá trình sở hữu hóa có thể cá thể hay tập thể. Thời thị tộc, tôi tức là tôi tập thể. Bản ngã có tính chất cá thể xuất hiện với chế độ sở hữu cá thể, tách biệt người này với người kia. Của của tôi không phải là của của anh. Quá trình sở hữu hóa tự phát đến chế độ tư bản mới có tính chất tự giác. Chính đấu tranh của giai cấp tư bản chống giai cấp phong kiến nhằm chế độ tư hữu mới, có ý thức, đấu tranh chống lại những đặc quyền của giai cấp phong kiến. Trái lại, đấu tranh của nô lệ chống chủ nô, hay phong kiến mới chống Nhà nước chủ nô cũ, không có ý thức rõ rệt về nội dung thực sự, tức là thay đổi chế độ sở hữu. Sở dĩ bọn tư bản có ý thức như vậy là vì lần đầu tiên có một tổ chức sản xuất mà người chỉ huy sản xuất có thể nắm được rõ rệt quá trình của nó. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một phương thức có ý thức, bọn tư bản tính toán quá trình sản xuất một cách chi tiết. Tất nhiên không phải là tính toán toàn bộ, họ chỉ trong phạm vi cục bộ tư hữu thôi, chứ không phải toàn bộ, cho nên sinh ra hẹp hòi, duy tâm, trừu tượng. Nhưng trong giới hạn ấy, nó có nắm được quá trình sản xuất. Trong giới hạn ấy, bọn tư bản nắm được hoạt động của con người theo hình thức kỹ thuật trừu tượng. Vì họ nắm được như vậy, cho nên ý thức sở hữu của họ rất rõ rệt.

 

Chính tổ chức sản xuất với cách vận dụng trí tuệ của nó gây ra ý thức sở hữu và cuộc đấu tranh giai cấp của tư bản chống phong kiến.

 

Hegel đã phản ánh quá trình này trong phạm vi tinh thần. Hegel nói: những mâu thuẫn của trí tuệ đưa đến ý thức bản ngã. Thực tế, nó là quá trình phương thức tư bản chủ nghĩa chuyển lên đấu tranh chống phong kiến, tranh giành quyền tư hữu tư bản chủ nghĩa. Nó là một quá trình thực tế trong lịch sử. Nhưng Hegel đã phản ánh một cách hẹp hòi nên kết luận lộn ngược: thế giới là chúng ta tức là không có thế giới, chỉ có chúng ta.

 

Triết học Hegel là duy tâm tuyệt đối, nhưng nó thông qua cả nội dung cụ thể của lịch sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản ánh lịch sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất hiện trong phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên.

 

Phương pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển theo mâu thuẫn là một phương pháp rất đúng mà Hegel đã vận dụng trong phạm vi duy tâm, một cách trái ngược, nhưng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã bị xuyên tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hegel lại quan niệm là quá trình phát sinh của ý thức tự ngã. Nhưng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy trong phạm vi tinh thần với những khái niệm trừu tượng, thực tế Hegel đã diễn tả những hình ảnh phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp tư bản.

 

Chương IV - Ý THỨC BẢN NGÃ (tức là tự ý thức, B.T)

 

Có thể nói đây là chương nổi tiếng nhất của quyển Hiện tượng luận tinh thần. Chương này được sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần:

 

Phần  I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã.

Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã.

 

Phần I gồm ba tiết:

1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn;

2 - Chiến đấu sống chết;

3 - Chủ nô và nô lệ.

 

Phần II gồm 3 tiết:

1 - Khắc kỷ;

2 - Hoài nghi;

3 - Tâm hồn gian khổ.

 

Phần thứ I phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình chuyển biến của chế độ nô lệ. Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ (tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do tính của con người. Theo Hegel, những người theo đạo Gia-tô là những người có tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ được cứu thế, nhưng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây nên đòi hỏi cứu thế. Hegel đã diễn tả quá trình lịch sử đó trong phạm vi tinh thần.

 

Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã

 

1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn

 

Biện chứng pháp của ý thức nhằm đối tượng đã đi tới chỗ nhận thấy rằng thế giới khách quan mà ý thức tưởng là có ngoài ta, thực ra cũng chỉ là ta. Đến trình độ trí tuệ, thế giới cũng chỉ là quan hệ toán lý do ý thức đặt ra, nó là một hệ thống quan hệ chủ quan có giá trị khách quan. Như thế, đối tượng khách quan cũng chính là mình thôi. Tức là ý thức chuyển lên ý thức bản ngã. Cái mà tôi trông thấy cũng là tôi thôi. Hình thức đơn giản nhất của ý thức bản ngã Hegel giới thiệu là lòng ham muốn. Trong lòng ham muốn, chúng ta phủ định đối tượng tức là cái mà ta ham muốn. Ham muốn cho là đối tượng độc lập ngoài mình là của mình, do đó mà mình đòi hỏi nó, đem nó hấp thụ vào mình. Lòng ham muốn phủ định vật thể bên ngoài. Đó là hình thức đơn giản nhất ở trình độ sinh vật của ý thức bản ngã. Ý thức bản ngã gặp đối tượng thì lại chỉ thấy mình. Nhưng trong lúc ý thức bản ngã phát triển với hình thức ham muốn, thì nó gặp mâu thuẫn ở chỗ một khi lòng ham muốn đã được thỏa mãn rồi thì lại ham muốn nữa, đối tượng khách quan bao giờ cũng tái lập. Vậy bản ngã, thực tế, không bao giờ phủ định được đối tượng khách quan như ý muốn. Trái lại, đối tượng khách quan cứ xuất hiện mãi, do đó mà lòng ham muốn cũng cứ kéo dài. Điều đó chứng tỏ lòng ham muốn không đủ để phủ định khách quan. Trong quá trình ham muốn chỉ có ý phủ định khách quan, nhưng thực tế không phủ định được nó. Mâu thuẫn đó chỉ giải quyết được bằng cách khách quan tự nó phủ định nó, nó công nhận nó không phải là nó, mà là mình. Ý thức bản ngã chỉ có thể được thỏa mãn bằng quá trình công nhận: ý thức bản ngã được ý thức bản ngã khác công nhận. Nói nôm na là hai người phải công nhận quyền sống của mỗi bên. Chỉ trong trường hợp hai bên công nhận lẫn nhau như thế mới thiết lập được một cách chân chính ý thức bản ngã, tức là sự tin tưởng ở mình. Tin tưởng ấy có thực hay không là do chỗ người ta có công nhận mình hay không. Quá trình được công nhận xuất hiện như thế nào? Nó xuất hiện trong cuộc chiến đấu sống chết.

 

2 - Chiến đấu sống chết

 

Theo Hegel, buổi đầu hai người gặp nhau, mỗi người tự tin tưởng ở mình và chỉ tin tưởng ở mình thôi, chưa bên nào công nhận bên nào cả. Lúc đó, bên này còn cho bên kia là một vật cần phải phủ định và tiêu diệt. Bên này tiêu diệt bên kia, vì nó chỉ trông thấy có nó. Trong khi tiêu diệt bên kia thì tự nó cũng phải chịu cái nguy hiểm là nó cũng có thể bị tiêu diệt, nghĩa là trong chiến đấu nó cũng có thể chết. Cuộc đấu tranh của đôi bên là đấu tranh vì muốn được công nhận. Mỗi bên phải tiêu diệt bên kia, đồng thời cũng có thể bị tiêu diệt. Có thế mới chứng minh rằng mình mới xứng đáng được công nhận. Nói một cách nôm na, cuộc đấu tranh đó là đấu tranh vì danh dự. Đấu tranh là đấu tranh sống chết, vì nó nhằm cái chết bên kia, đồng thời chứng minh rằng mình không sợ chết. Nhưng đây xuất hiện mâu thuẫn: nếu trong chiến đấu, một bên chết đi hoặc cả hai bên đều chết, thì không còn ai để công nhận, vì bên kia đã chết rồi. Hoặc nếu cả hai bên chết thì hết vấn đề. Đó là mâu thuẫn nội bộ mà bước đầu chỉ có thể giải quyết được bằng cách một bên này công nhận một bên kia. Bên được công nhận tập trung ý nghĩa của ý thức bản ngã, tức là ý nghĩa danh dự của con người. Bên được công nhận đó là chủ nô. Bên phải công nhận thì nhận phần vật chất, biến thành nô lệ. Như thế là phần tinh thần thì thuộc về chủ nô, phần vật chất thì thuộc về nô lệ. Nô lệ chịu làm nô lệ cho chủ nô là đã công nhận phần tinh thần của mình ở bên kia tức là bên chủ nô rồi. Còn bên chủ nô lệ là bên được công nhận thì sử dụng nô lệ như là vật thể của mình.     

 

3 - Chủ nô và nô lệ

 

Biện chứng pháp của chủ nô là bộc lộ mâu thuẫn trong con người chủ nô. Đối với chủ nô, ý thức bản ngã là tinh thần, nó chỉ biết nó, nó coi vật thể tức thế giới vật chất như là của nó. Nó phủ định thế giới vật chất bằng cách sử dụng nô lệ, bắt nô lệ phải biến thế giới vật chất thành một thế giới cho nó có thể hưởng thụ được, tức là thông qua người nô lệ nó phủ định tính chất khách quan của thế giới vật chất trong quá trình hưởng thụ, làm cho vật thể không còn tính chất độc lập bên ngoài mà chỉ có trong phạm vi mình hưởng thụ nó. Xét bề ngoài thì như thế, nhưng xét bề trong thì cái gì cho phép chủ nô phủ định, hưởng thụ vật thể khách quan? Đó là công trình lao động của nô lệ. Nhờ công trình lao động ấy mà vật thể khách quan đã biến thành một vật thể cho chủ nô hưởng thụ. Chân lý là ở người nô lệ. Đó là nguyên nhân phủ định thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan thành vật thể hưởng thụ. Đó là chân lý của ý thức bản ngã của chủ nô. Tức sự hưởng thụ của chủ nô.

 

Về phía nô lệ, khi công nhận bên kia làm chủ thì đã bị mất tinh thần rồi. Tinh thần của mình đã chuyển sang chủ nô. Mình chỉ còn là vật thể dưới quyền sử dụng của tinh thần của chủ nô. Như thế cũng chỉ là bề ngoài, vì xét đến nội dung thực sự, thì chính trong lúc anh ta tưởng là mất tinh thần tức là mất quyền làm người của mình, thì thực tế anh ta đã run sợ, chứng tỏ có ý thức sâu sắc về ý thức bản ngã. Anh ấy là vật thể đương bị đe dọa. Vật thể đương bị đe dọa chính là anh ta, là mình. Ý thức bản ngã mà tự cảm thấy trong lúc run sợ lại được thành hình vững chắc trong công trình lao động, vì trong cương vị nô lệ anh ta chỉ lao động mà không được hưởng thụ. Trong công trình lao động ấy, anh ta đã tạo ra một con người mới, có quyền lực thực sự đối với giới vật chất. Quyền lực của chủ nô đối với vật chất chỉ là bề ngoài,  vì phải thông qua lao động của nô lệ. Chỉ có nô lệ với công trình lao động thực sự của họ, họ mới có quyền thực tế đối với thế giới bên ngoài. Họ mất tinh thần, nhưng thực tế họ đã tự tạo một tinh thần có giá trị thực sự. Cái lý của hưởng thụ mà chủ nô tưởng là của nó, thì thực chất là của nô lệ, do lao động của họ gây nên.

 

Phê phán:

 

Đó là một biện chứng pháp được nhiều ảnh hưởng về mọi mặt. Biện chứng pháp này trong triết học Âu châu, ngoài phần sử dụng của Marx, bọn triết gia tư sản cũng đem sử dụng với mục đích khác.

 

Ta thấy Hegel có phân tích sâu sắc một quá trình diễn biến tư tưởng, phản ánh một quá trình lịch sử thực, tức là sự xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, và cuộc suy vong của giai cấp chủ nô, và thắng lợi cuối cùng của nô lệ, tuy rằng trong lịch sử, nó là thắng lợi hữu hạn. Cái thắng lợi đó là cái mà Hegel gọi là chân lý của ý thức chủ nô. Chủ nô tưởng là đã tập trung hết cả quyền lực vào mình, nhưng thực tế thì quyền lực là về bên nô lệ.

 

Chế độ nô lệ tự nó mâu thuẫn với nó, và tự nó phủ định nó. Nhưng trong lúc giới thiệu quá trình diễn biến trong phạm vi tinh thần, Hegel hoàn toàn không đếm xỉa gì đến cơ sở thực tế của nó. Hegel đã trình bày quá trình diễn biến một cách hoàn toàn trừu tượng, thành ra chỉ có trong tinh thần thôi. Do đó, Hegel không những không biết gì đến cơ sở thực tế,  mà thực ra lại đảo lộn ý nghĩa chân chính trong tinh thần nữa. Lập luận của Hegel có một phần nói đúng, nhưng chính phần đúng đó cũng bị đảo ngược. Đảo ngược như thế nào?

 

l) Trước nhất, ở chỗ nói lòng ham muốn là biểu hiện của ý thức bản ngã phủ định vật thể bên ngoài, phủ định tính chất khách quan của vật thể, cho vật thể là của mình, là mình. Ở đây, Hegel có mô tả trạng thái ham muốn trong tinh thần. Trong lúc ham muốn, có thể cắt nghĩa là có phủ định tính chất khách quan của vật ta ham muốn, có lôi nó về mình,  nhưng trạng thái đó ở đâu ra? Phải chăng là ở quá trình hoàn toàn duy tâm như Hegel trình bày? Thực tế, trước khi có lòng ham muốn thì cũng đã có kinh nghiệm hưởng thụ. Nếu chưa có thì làm sao có ham muốn được. Chỉ ham muốn cái đã từng hưởng thụ. Kinh nghiệm hưởng thụ, xét tới cùng, cũng là xuất phát từ một quá trình vật chất, một quá trình sinh lý. Từ quá trình sinh vật trong cơ thể, và trong những quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh, mới gây ra những kinh nghiệm hưởng thụ, mới biết cái gì là hưởng thụ được. Trong tinh thần, khi lòng ham muốn phủ định tính chất khách quan, độc lập của vật thể, cho nó là mình thôi, thì nó cũng chỉ là lặp lại một quá trình đã có trong thực tế. Khi đã có ham muốn thì mới phủ định tính chất khách quan của đối tượng ham muốn. Cái mà Hegel cho là cơ sở của chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ là sự phản ánh quá trình vật chất. Hegel vì không trông thấy cơ sở thực tế của ý thức ham muốn, thành ra đến lúc chuyển lên vấn đề công nhận thì cũng không làm sao thấy được những lý do thực tế đã đưa đến đó.

 

2) Hiện tượng chiến đấu sống chết thì có trong kinh nghiệm lịch sử thật. Chiến đấu vì muốn được công nhận. Vì muốn được công nhận thì phải tiêu diệt bên kia, và tự mình cũng nhận phần có thể bị tiêu diệt. Nhưng có phải chỉ vì muốn được công nhận trong ý thức bản ngã của mình mà hai bên tiêu diệt lẫn nhau, chiến đấu với nhau đến chết không? Trong tinh thần có trạng thái chiến đấu đó, nhưng nội dung thực tế có phải như thế không? Trong lịch sử ta thấy rằng:

 

Chiến đấu sống chết lúc đầu không phải là giữa hai cá nhân mà là giữa hai thị tộc với nhau. Ý thức danh dự đây là của tập thể, tức là của thị tộc. Chứ không phải của cá nhân. Cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ cơ sở sản xuất của thị tộc ấy. Nếu không có cơ sở sản xuất ấy, thì không hiểu vì đâu các thị tộc chiến đấu với nhau. Cuộc chiến đấu phát triển thì nó có ý thức chiến đấu sống chết, vì muốn được công nhận. Đó là quá trình duy tâm trong quá trình thực tế; nhưng thực chất của nó vẫn dựa trên cơ sở vật chất. Hegel vì đã tuyệt đối hóa một hiện tượng duy tâm, nên nói rằng hai bên phải tiêu diệt lẫn nhau, và nhận rằng mình cũng có thể bị tiêu diệt. Vì tuyệt đối hóa hiện tượng ấy nên Hegel đã đi tới đề cao chiến đấu vì chiến đấu, lấy chiến đấu sống chết làm điều kiện tất yếu của danh dự con người. Do đấy, sẽ cho rằng chiến tranh có một giá trị huyền bí; đã làm người là phải có chiến tranh; có chiến tranh mới có giá trị. Đây là một đoạn mà bọn phản động ở Pháp, Đức, Ý đã lợi dụng để tuyên truyền chiến tranh từ 100 năm lại nay.

 

3) Về nguồn gốc chế độ nô lệ, theo cách trình bày của Hegel, thì sở dĩ có chủ nô và nô lệ là vì cần được công nhận. Như thế thì bên được phải để cho bên kia sống để công nhận nó. Trong thực tế, sở dĩ  bên thắng để cho bên bại sống làm nô lệ là vì trình độ sản xuất đã phát triển tới một mức nhất định. Nếu kỹ thuật chưa đến mức dùng nô lệ có lợi thì sẽ không có chuyện dùng nô lệ, mà tù binh bắt được hoặc bị giết đi, hoặc không bị giết thì được kết nạp trong thị tộc. Hegel đã bỏ qua hoàn toàn điều kiện bóc lột của chế độ chiếm hữu nô lệ, do đó đã duy tâm hóa tính chất bóc lột, cho rằng chủ nô đã tập trung phần tinh thần, và nô lệ thành vật thể của chủ nô. Hegel có mô tả những trạng thái tâm lý đã có trong chế độ nô lệ, như: coi nô lệ là vật thể, chỉ có chủ nô mới có tinh thần. Nhưng hiện tượng tâm lý đó là do chế độ áp bức bóc lột gây ra, chứ không phải chế độ áp bức bóc lột xuất hiện từ tinh thần ấy. Hegel đã lộn ngược vấn đề. Do đấy, đã bỏ qua cái quá trình đấu tranh giai cấp thực sự giữa chủ nô và nô lệ, bỏ qua những thủ đoạn áp bức bóc lột của bọn chủ nô, bỏ qua tinh thần chiến đấu và lịch sử chiến đấu của giai cấp nô lệ. Phần nội dung chân chính trong biện chứng pháp của Hegel là có trông thấy chân lý của hưởng thụ của chủ nô chính là do công trình lao động của nô lệ. Nhờ đó mà Hegel đã có ảnh hưởng. Nhưng Hegel lại trình bày phần chân chính đó một cách rất trừu tượng, tách rời khỏi quá trình đấu tranh tích cực của nô lệ chống chủ nô, chỉ trông thấy phần huấn luyện con người của giai cấp nô lệ. Do đó mà nói rằng chính công trình lao động trong cương vị nô lệ, tức quá trình lao động cưỡng bách, đã tạo ra con người mới có sức cải tạo thiên nhiên thực sự. Điều đó có phần đúng, nhưng trình bày trừu tượng như thế thì hình như chế độ nô lệ là một điều kiện tất yếu để tạo ra con người có tài năng thiết thực. Như thế là Hegel đã duy tâm hóa chế độ nô lệ, không biết rằng tuy trong lịch sử chế độ nô lệ có đóng vai trò tiến bộ trong một giai đoạn nào đó, nhưng đây chỉ là do điều kiện lịch sử, tức là sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. Chế độ nô lệ chỉ tiến bộ trong điều kiện lịch sử ấy, chứ không phải do sự cưỡng bách lao động mới tiến bộ, mới tạo ra con người có tài năng. Sở dĩ lao động lúc đầu tiên phải cưỡng bách, là vì có thế mới nâng cao mức lao động hơn cái mức ở chế độ thị tộc. Nhưng cưỡng bách nhất định không phải là một bản chất của lao động. Vì duy tâm hóa điều kiện lịch sử này, nên cho rằng cưỡng bách là một điều kiện để tạo ra con người có kỷ luật, có tài năng. Đấy là điểm rất sai của Hegel. Thực tế, ta đã thấy trong những điều kiện lịch sử khác, chế độ thị tộc có thể chuyển sang một chế độ không có áp bức bóc lột mà vẫn không phải thông qua chế độ nô lệ. Thực tế, không phải là phải có áp bức bóc lột người ta mới tạo cho con người có kỷ luật, tài năng. Lập luận của Hegel chính là di tích của quan niệm thống trị cũ. Bề ngoài, Hegel hình như có đề cao giai cấp mới, mà thực sự có đề cao thật, nhưng xét thực chất thì Hegel đề cao nó một cách rất trừu tượng, rất duy tâm. Hegel đã đề cao công trình lao động của nô lệ với hình thức cưỡng bách của nó, mà không phải đề cao công trình lao động của nô lệ trong phần chống cưỡng bách ấy. Lối đề cao của Hegel cũng tựa như một số người cho rằng có chế độ thực dân thì ta mới có một số kỹ thuật, mới học tập được một số kiến thức. Như thế là đã phê phán chế độ thực dân trong phạm vi chế độ thực dân. Đó là một sai lầm nguy hại. Chính Hegel vì đã đề cao công trình lao động nô lệ trong phạm vi nô lệ, trong cương vị người nô lệ, thành ra không có giải pháp thực tế. Nếu đã nhận giai cấp nô lệ là chân lý của giai cấp chủ nô, chủ nô có được cái gì là nhờ nô lệ cả, thì sẽ không thể duy trì được mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ. Nhưng Hegel không đi xa hơn kết luận tiêu cực ấy. Đến lúc cần một giải pháp tích cực, thì Hegel chỉ có thể đưa ra những giải pháp duy tâm của giai cấp chủ nô đã đề ra cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ,  tức là khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ.

 

Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã

 

Nhờ công trình lao động của nô lệ, đời cổ đại đã xây dựng được một thế giới mới có tính chất nhân tạo, trong đó ý thức bản ngã có thể hưởng được tự do, nghĩa là lúc trông thấy vật thể bên ngoài, nhận thấy vật thể bên ngoài cũng là nó. Tự do là sống trong một thế giới mà mình tự nhận mình trong thế giới ấy, những vật thể trong thế giới ấy đã mất tính chất độc lập với ta mà là những vật thể của mình thôi. Sống trong thế giới ấy tức là hưởng được đời sống tự do, không bị cái gì đối lập, cưỡng bách mình. Hegel đã trình bày hình thức tự do đó trong phạm vi tinh thần, qua ba chủ nghĩa sau đây:

 

1 - Khắc kỷ (Stoicisme)

 

Theo chủ nghĩa khắc kỷ thì thế giới căn bản là lý tính, nghĩa là nó không phải cái gì ngoài mình mà là cái mình có thể và cần phải công nhận vì nó có lý và tốt. Tất cả những sự việc xảy ra, dù có một vài sự việc làm hại đến cá nhân một vài người chúng ta, nhưng xét đến toàn bộ thế giới thì nó là tốt. Nó tốt vì nó là ý chí của Thượng đế. Những người nhận thức được điểm đó tức là hiền nhân theo quan niệm chủ nghĩa khắc kỷ. Theo quan niệm đó, hiền nhân bao giờ cũng sung sướng vì họ sống trong một thế giới mà cái gì cũng tốt cả. Nhưng đây lại xuất hiện mâu thuẫn. Nói rằng cái gì cũng tốt cả có phần đúng, nhưng chỉ là hình thức thôi. Cụ thể, một việc tốt là một việc thế nào? Vì sao tốt? Chủ nghĩa khắc kỷ không trả lời được. Nó chỉ nói chung chung rằng thế giới là tốt, tốt là vì ý muốn của Thượng đế. Thứ tự do theo chủ nghĩa khắc kỷ chỉ là hình thức. Trước một sự việc khó khăn, hiền nhân theo chủ nghĩa khắc kỷ chỉ có cách là chịu đựng. Do đó, khắc kỷ có nghĩa là chịu đựng. Với thái độ khắc kỷ ấy, thực ra không thể thực hiện được một trình độ tự do thực sự. Nói là tự do nhưng thực tế là phải chịu đựng. Nó chỉ nói một cách chung chung rằng hiền nhân dù có chịu đựng tốn đến bao nhiêu chăng nữa cũng là sướng. Có hai vị tiền nhân nổi tiếng của chủ nghĩa khắc kỷ là Marc Aurele[4] thuộc giai cấp chủ nô, và Epictète[5] thuộc nô lệ. Hai ông đều được cho là sướng ngang nhau, nhưng nói thế chỉ là nói suông thôi,  quyền tự do của ý thức bản ngã là nhận thấy trong mọi sự vật bản ngã của mình. Quyền tự do ấy phải được chứng minh cụ thể trong mọi sự việc, chứ không phải nói một cách chung chung như chủ nghĩa khắc kỷ được.

 

2 - Hoài nghi (Scepticisme)

 

Là chủ nghĩa phủ định tính chất khách quan độc lập của mọi sự việc để thực hiện quyền tự do của bản ngã. Nó thiết lập quyền ý thức bản ngã trong mọi sự việc khách quan. Chủ nghĩa hoài nghi phủ nhận hết tất cả. Cái gì nó cũng hoài nghi. Nhưng nó lại được sung sướng trong việc phủ định tất cả. Trong khi phủ định tất cả sự việc, tự nó lại có ý thức rằng nó không phụ thuộc sự việc nào, vì nó đã phủ định tất cả mọi việc. Ví dụ: nó phủ định các kiến thức, cho rằng những vật ta trông thấy chưa chắc đã có mà có thể chỉ là mơ mộng. Trong lúc phủ định vật thể như vậy, nó có ý thức rằng nó cao hơn tất cả. Nó có quyền phủ định giá trị của mọi nhân vật, không công nhận một giá trị của ai hết. Cho mình là cao hơn hết. Chính trong lúc phê phán, tự mình hưởng cái cảm tưởng rằng mình là cao nhất. Nhưng chính ở đây xuất hiện mâu thuẫn. Thực sự cái sung sướng mà chủ nghĩa hoài nghi hưởng được có thực không? Thực tế hoài nghi cũng không nắm được gì cả. Nó chỉ gây được một cảm tưởng chủ quan thôi, chứ không nắm được một chân lý nào hết.

 

Phê phán:

 

Trên đây là lập luận của Hegel. Lập luận đó có ưu điểm là phê phán bên trong, bộc lộ mâu thuẫn của mỗi chủ nghĩa, nhưng phê phán như thế chưa đủ. Nếu nói rằng tự do chủ nghĩa khắc kỷ là hình thức thì nó có phần đúng. Nó có phản ánh một hiện tượng có thực trong lịch sử: chủ nghĩa khắc kỷ chính là tiêu biểu cho những giai cấp thống trị cũ (gồm quý tộc và lái buôn chủ nô) trong giai đoạn chế độ nô lệ đã bị nguy cơ sâu sắc. Cương vị của những giai cấp chủ nô lung lay rất nhiều rồi. Cụ thể, rất nhiều chủ nô phải biến thành nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp hóa, tức là thời kỳ các thành thị Hy Lạp mất độc lập, phải phụ thuộc những đế quốc Hy Lạp hóa (sau cùng là đế quốc La Mã). Rất nhiều chủ nô ở thành thị Hy Lạp bị La Mã bắt về La Mã làm nô lệ. Nhưng trong cương vị nô lệ mới của họ, họ vẫn giữ cái kết quả đào tạo trước, nghĩa là người nô lệ mới này trước là chủ thì nay vẫn được phục vụ theo nghề chuyên môn của họ. Ví dụ giáo sư Hy Lạp, dù bị La Mã bắt về làm nô lệ, nhưng họ vẫn được làm nô lệ với nghề giáo sư. Do đó, trong thời đại ấy, ý thức của giai cấp chủ nô cũ đã được mở rộng, nghĩa là nó quan niệm rằng nó cũng có thể làm nô lệ được. Quan niệm đó được phản ánh trong chủ nghĩa khắc kỷ: dù nó có làm nô lệ, thì trong cương vị nô lệ ấy nó vẫn sướng. Đó là nguyên nhân mà chủ nghĩa khắc kỷ đề cao cương vị nô lệ, cho rằng hiền nhân dù ở cương vị nô lệ ấy nó vẫn sướng. Nhưng đó chỉ là cách duy trì cương vị cũ trong phạm vi tâm hồn. Thực tế, dù chủ nô cũ có bị làm nô lệ, thì tư tưởng vẫn là tư tưởng chủ nô. Nó vẫn tự cho mình là cương vị chủ nô. Cái tự do đầy thực tế là tự do hình thức như Hegel đã chứng minh. Nhưng phải nói rõ bản chất nó chính là tự do của chủ nô cũ.

 

Trong cách trình bày của Hegel, chủ nghĩa hoài nghi đứng về mặt khái niệm thì đối lập với chủ nghĩa khắc kỷ, nhưng yêu cầu căn bản chỉ là một. Đó là ý thức cho rằng thực chất đối tượng không phải là cái gì xa lạ đối với mình nữa, mà chỉ là mình đây. Nhu cầu đó xuất phát từ một cơ sở thực tế, nó phát triển ở một thời đại mà trình độ văn hóa đã khá cao: con người đã có thể cải tạo được thế giới tự nhiên, do đó thấy mình tự do trong thế giới khách quan ấy. Hegel cũng đã quan niệm được đó là do công trình lao động của giai cấp nô lệ. Nhưng xuất phát từ một biện chứng pháp duy tâm, Hegel cho chủ nghĩa hoài nghi là thực hiện yêu cầu của chủ nghĩa khắc kỷ: chủ nghĩa khắc kỷ tin tưởng ở chân lý một cách trừu tượng, không chứng minh trong chi tiết sự việc; thực chất khách quan là chứng minh trong chi tiết sự việc: thực chất khách quan là mình. Chủ nghĩa hoài nghi thực hiện được yêu cầu đó: trong lúc hoài nghi và phủ định mọi sự vật, nó tự đặt nó cao hơn mọi vật. Nhưng Hegel cũng không bộc lộ được nội dung thực sự của hiện tượng ấy. Khắc kỷ là ý thức của giai cấp chủ nô bị đe dọa nhưng vẫn đứng về phía chính quyền, tin tưởng rằng cái gì cũng tốt vì nó vẫn giữ được nốt phần quyền lợi cũ; nhưng đến lúc đó bị đe dọa hơn nữa, nó không thể đứng về phía chính quyền, thì nó lại khẳng định cương vị chủ nô cũ một cách tiêu cực: nó phủ định tất cả để đặt mình cao hơn tất cả những cái mà nó phủ định. Do chỗ Hegel chỉ phân tích trong tinh thần cho nên ông nhận định trái ngược giá trị của chủ nghĩa hoài nghi. Thực tế, trong lúc hoài nghi tất cả các giá trị cũ thì nó đã phủ định được các tư tưởng mê tín của giai cấp thống trị, do đấy đã giải phóng được tư tưởng một phần nào, tạo điều kiện xây dựng tư tưởng mới. Nó đã đại biểu được phần nào đấy, một cách gián tiếp, cho những phong trào chống chế độ chủ nô ở thời nô lệ tan rã. Hegel có công nhận sự tan rã của chế độ nô lệ, nhưng vẫn đứng về phe thống trị, vì ông trình bày rằng khi nó phủ định tất cả thì nó lại nắm được giá trị chân lý.

 

3 - Tâm hồn gian khổ

 

Phái hoài nghi đi từ lập trường nọ sang lập trường kia, đi từ tư tưởng cá thể phủ định từng sự việc linh tinh chuyển lên ý thức đại thể cho rằng mình nắm được tất cả, bao quát được tất cả. Nhưng xét nội dung thực sự thì chính cái đại thể ấy cũng chỉ là cá thể, vì khi phủ định hết sự việc nọ đến sự việc kia, thì nó phải phủ định cả nó nữa. Cho nên chính chủ thể cũng nằm trong những đối tượng bị phủ định, mặc dầu vẫn có cảm tưởng là mình nắm được tất cả. Cái mà Hegel gọi là kinh nghiệm của chủ nghĩa hoài nghi (là chính nó) cũng bị phủ định nốt (tôi phủ định giá trị của mọi người, nhưng tôi cũng chỉ là một người, vậy tôi cũng phủ định giá trị của tôi). Rút kinh nghiệm ấy ra, thì trong cùng một ý thức có hai điểm đối lập: một mặt là cá thể: cá nhân luôn luôn sai lầm, luôn luôn biến chuyển lúc thế nọ lúc thế kia; mặt khác là đại thể: trong khi phủ định thì nắm được tất cả. Vì không thống nhất được mâu thuẫn trong con người (cá thể và đại thể) gây ra một tâm trạng mà Hegel kêu bằng tâm hồn gian khổ. Cái đó Hegel nhằm tâm trạng của các tín đồ đạo Gia Tô luôn luôn thấy mình ở trên hai lập trường:

 

Lúc mình tự nhận là xấu, là có tội, thì đồng thời mình thông cảm được với Thượng đế, được cứu thế. Nhưng chỉ được cứu thế trong lúc có tội, nếu không thấy có tội thì không được cứu thế. Tư tưởng được cứu thế là tư tưởng có tội: hai tư tưởng luôn luôn khăng khít với nhau, nhưng không thống nhất với nhau. Đứng về mặt khái niệm, tâm trạng ấy được phát triển theo 3 điểm:

 

+ Mình vừa là cá thể, vừa là đại thể: mình tự nhận mình là cá thể nhưng có ý thức đại thể, nhưng đại thể ấy rất xa xôi đối với mình (Thượng đế). Mình không xứng đáng với Thượng đế, vì mình chỉ là cá nhân vô giá trị, mình có tội.

 

+ Trong lúc nhận mình có tội thì lại có ý thức về cái đại thể xa xôi ấy: mình tự nhận mình trong Thượng đế, Thượng đế cũng là ta đây: tức là Thượng đế đã giáng thế với hình thức chúa Gia tô.

 

+ Chúa giáng thế thành người cũng như ta, vậy chân lý đã là ta, ta cũng là chân lý; tức là được cứu thế.

 

Ba điểm trên nói tóm lại tương ứng với 3 mệnh đề của đạo Gia tô:

- Người có tội xa Thượng đế;

- Thượng đế giáng thế;

- Nhân loại được cứu thế.

 

Do quan hệ giữa đại thể và cá thể, tâm hồn gian khổ diễn biến theo ba giai đoạn:

- Lòng nhiệt tín (nhiệt tâm tin tưởng);

-  Lao động và hưởng thụ;

-  Tự phạt và cấm dục (cấm dục: cấm cái gì mà mình muốn).

 

a - Lòng nhiệt tín

 

Do cái quan hệ giữa người và thần: xa nhau nhưng gần nhau; chỉ gần nhau trong lúc xa nhau, trong lúc gần nhau lại xa nhau. Mình chỉ gần Thượng đế khi nào mình nhận thấy rằng mình có tội. Mà càng gần như thế thì lại càng thấy xa, tức là thấy mình không xứng đáng. Do mâu thuẫn nội bộ ấy, xuất hiện thái độ tin tưởng một cách tuyệt đối và nồng nàn. Tuy mình không có một nhận định chính xác về Thượng đế,  nhưng tâm hồn hướng về Thượng đế (Hegel gọi là tư tưởng âm nhạc hay tiếng chuông trong tâm hồn). Trong lúc tâm hồn đi tìm Thượng đế thì nó gặp Thượng đế trong con người cụ thể của chúa Gia tô, thấy Thượng đế cũng là người, cũng như mình và tưởng mình được cứu thế. Nhưng Thượng đế là người thì phải chết, và thực tế chúa Gia tô đã chết và ta không thể nắm được Thượng đế. Chỉ còn có cách đi tìm mồ Thượng đế (phong trào Thập tự chinh thời Trung Cổ). Nhưng cái mồ chỉ là đống đất, vậy cuối cùng thì vẫn không thống nhất được với Thượng đế.

 

b - Lao động và hưởng thụ

 

Sau khi có kinh nghiệm rằng không thể thống nhất được với Thượng đế, ta thấy ta chỉ là người thôi. Nhưng con người này đã thông qua cái cảm tín rằng nó có giá trị chân lý, vì nó là người của Thượng đế. Nó thể hiện cái cảm tín trong lao động và hưởng thụ. Đến đây lại xuất hiện mâu thuẫn: nó thống trị thế giới bằng lao động và hưởng thụ, nhưng lại với cương vị là người của Thượng đế: nó công nhận sự thành công của nó trong quá trình lao động là do Thượng đế ban ơn (grâce divine). Mâu thuẫn này được giải quyết bằng thái độ thứ ba.

 

c - Tự phạt và cấm dục

 

Nó có lao động, nhưng do Thượng đế ban ơn. Công lao của nó là Thượng đế ban ơn, cho nên nó phải kìm hãm tư tưởng tự cao tự đại về thành tích của nó, bằng cách tự phạt và cấm dục để xứng đáng với ơn của Thượng đế.

 

Phê phán:

 

Ba thái độ ấy có thật trong quá trình phát triển đạo Gia tô, biểu lộ trong công trình kiến trúc văn nghệ v. v... Lòng nhiệt tín biểu hiện trong phong trào đi tìm mồ Chúa, bao tín đồ đã hy sinh của cải và tính mạng. Lao động hưởng thụ là công trình phát triển sản xuất tương đối trong thời kỳ Trung Cổ,  gây cơ sở cho chủ nghĩa tư bản. Thái độ tự phạt và cấm dục cũng biểu hiện trong tác phong tôn giáo trong thời Trung Cổ. Hegel đã có công mô tả quá trình diễn biến trên một cách đặc biệt cụ thể và sâu sắc, nhưng chỉ mô tả trong tinh thần và một cách trái ngược. Mâu thuẫn trong con người của đạo Gia tô không phải xuất phát từ một biện chứng pháp trong tinh thần, từ ý thức hoài nghi lên ý thức nhiệt tín... Sự đấu tranh tư tưởng, giữa đại biểu của phái hoài nghi trong thời Cổ đại tan rã với phái tín ngưỡng Gia tô, là biểu hiện cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô cũ và những lớp sắp chuyển sang phong kiến có lôi cuốn nhân dân. Sự đấu tranh của giai cấp nô lệ biểu hiện gián tiếp trong tư tưởng tín ngưỡng của giai cấp địa chủ mới. Giai cấp nô lệ đấu tranh đã bắt đầu buộc chúng phải công nhận một số quyền lợi của người nô lệ. Ở thôn quê, nô lệ được giải phóng trở thành lệ nông[6]. Ở thành thị  cũng có phong trào giải phóng nô lệ, vì bọn chủ không thể nuôi được, vì nuôi thì rất lộn xộn và không lợi gì cho chúng. Một mặt, chúng có giải phóng cho nô lệ, nhưng mặt khác,  chúng lại đặt ra nhiều điều kiện: chúng bắt lệ nông nộp tô và phục dịch rất cực khổ. Do đó, quan hệ bóc lột người từ chỗ vô điều kiện chuyển sang chế độ bóc lột có điều kiện; nô lệ được công nhận giá trị làm người với hình thức ban ơn của chủ nô cũ, và để đáp lại sự ban ơn đó người lệ nông phải nộp tô. Đó là quá trình biến chuyển từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến: quan hệ bóc lột vô điều kiện của chủ nô đối với nô lệ nay thành một số quan hệ cá nhân: chủ và tớ, ban ơn và biết ơn. Quan hệ này có một phần nào tiến bộ so với quan hệ cũ, nhưng nó lại thiết lập một chế độ bóc lột mới, và có bóc lột theo lối mới thì mới có lợi.

 

Trong phạm vi tư tưởng, quan hệ bóc lột mới xuất hiện như thế nào? Quan hệ ban ơn tức là ý thức cho rằng người ta có giá trị chân lý, có quyền làm người. Quyền này lại xa xôi do ở đâu đưa đến chứ không phải là do lao động của nô lệ mà ra, mà là do chủ nô ban ơn. Con người là cá nhân vô giá trị không xứng đáng với đại thể, nhưng phần nào cũng nắm được cái đại thể (có ý thức đại thể) do ở chỗ Thượng đế đã giáng thế cứu thế nhân loại. Nhưng cũng không cứu thế đồng loạt, có người được cứu thế, có người không. Hegel không quan tâm đến cơ sở thực tế đó nên trình bày tâm hồn gian khổ một cách trừu tượng và trái ngược. Thực tế, cái đại thể xuất phát từ cái cá thể: do công trình lao động mà con người đã xây dựng nên cái ý thức giá trị về mình. Hegel lại cho nó xuất phát từ đại thể, do đấy mà cái cá thể không xứng đáng, cái đại thể lại rất xa xôi, tức là quyền lợi của giai cấp thống trị vẫn được bảo đảm. Hegel công nhận con người có lao động và có phát triển sản xuất, nhưng Hegel cho sở dĩ có là do có ý thức đại thể trong tâm hồn gian khổ mà lao động một cách tích cực như thế.

 

Do sự phát triển của sức sản xuất, ý thức bản ngã không thể nằm mãi trong tâm hồn gian khổ, vì nó có ý thức rằng nó nắm được thế giới. Hegel phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp từ cuối thời Trung Cổ của giai cấp tư sản đang lên chống phong kiến, đề cao giá trị con người mới. Hegel lại lật ngược vấn đề, biến thành một hiện tượng duy tâm, cho rằng sự tin tưởng ở con người mới là sự tin tưởng của ý thức bản ngã tự cho mình là thế giới. Cả một phong trào duy vật, nhân văn chủ nghĩa và cách mạng tư tưởng trong thời Phục hưng, Hegel biến thành một quá trình duy tâm: lý tính tin tưởng mình là thế giới đấy.

 

(Còn tiếp)

    



[1] Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872), triết gia duy vật Đức. Tác phẩm chính: Contribution à la critique de la philosophie hégélienne (1839), L'Essence du christianisme (1841), L'Essence de la religion (1845), Spiritualisme et Matérialisme (1858). PTL

 

[2]  Johann Gottleib Fichte (1762-1814), triết gia duy tâm Đức. Tác phẩm chính: Principes fondamentaux de la Doctrine de la science (1794), Fondements du Droit naturel (1796-1797), Destination de l'homme (1800), Discours à la nation allemande (1807-1808). PTL

[3] Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling (1775 – 1854), triết gia duy tâm Đức. Tác phẩm chính: Idées pour une philosophie de la nature (1797). Système de l'idéalisme transcendantal (1800). PTL

[4]  Marc Aurèle (Marcus Aelius Aurelius Verus, 121-180), hoàng đế và triết gia La Mã. Tư tưởng chính được ghi lại trong: Pensées pour moi-même.

[5]  Epictète (Epíktêtos, 50-130). Tư tưởng chính được ghi lại trong: Entretiens; Manuel d’Epictete.

[6] Nông nô.