TRONG KHU VÖÔØN CHIM HOÙT

Trần Kiêm Trinh Tiên

 

                                  

 

TRONG KHU VƯỜN CHIM HÓT  (*)

 

 

 

Mười một giờ trưa chuông điện thoại reo:

-          Mẹ đi Casablanca sáng sớm nay rồi.  Ông Ash bệnh nặng.  Chiều anh qua nhà em, hôm nay ngày giỗ ba em.  Khuya em sẽ đưa anh ra phi trường.                                

 

Giải Ngữ nói xong, cúp máy.  Tôi bâng khuâng ngồi bên mớ hành lư c̣n ngổn ngang.  Đă hai mươi tám Tết.  Về tới quê nhà cũng vừa vặn ba mươi.

 

 

            Lúc trả tiền cho người lái tắc xi, tôi hẹn ông mười giờ đêm quay lại đón tôi.  Đang tần ngần trước hai cánh cổng khép kín th́ đă nghe tiếng lách cách ở bên trong.  Có tiếng d́ Cầm:

-          Phải cháu Huân không?

            Ngôi nhà ở lưng chừng đồi, sau hàng tùng xanh ẩn đầy gió.  Tôi theo sau d́ Cầm, bước trên những bậc cấp lót bằng đá xanh.  Dọc hai bên lối đi, giữa màu lục non của cỏ và đá cuội trắng, ngát một màu tím xanh của hoa riviera.  Từ thuở yêu em, tôi đă biết yêu loài hoa này, loài hoa có màu tím xanh của bầu trời khuya đầy sao.  D́ Cầm dường như cũng đọc được tâm trạng của tôi:

 

-          Thuở xưa ở Huế vườn nhà d́ trồng rất nhiều hoa violettes.  Màu tím của hoa cũng tựa như ri nhưng hoa mọc lại ẩn trong lá.  Mùa đông violettes cũng nở.  Mà h́nh như tiết trời mưa lạnh làm cho màu hoa càng tím đượm hơn.

 

            Thấp thoáng trong nụ cười của d́ Cầm chút u hoài về một màu hoa không bao giờ cũ.  Có lần Giải Ngữ nói với tôi, mẹ d́ Cầm là chị của bà ngoại Giải Ngữ.  Ngày đám cưới ông bà ngoại, d́ Cầm nhỏ xíu c̣n được giao cho cầm lồng đèn.  Cha mẹ d́  mất sớm.  Ông bà ngoại đem d́ về nuôi, thương như con gái.  Năm mười tám, d́ Cầm có hứa hôn với người cháu họ xa của ông ngoại.  Ngày đất nước chia hai, họ chưa kịp cưới nhau th́ bác Lĩnh bặt tăm.  D́ ở vậy, phụng dưỡng ông bà ngoại.  Lúc Giải Ngữ ra đời cũng một tay d́ chăm sóc.  Và trên mảnh đất xa xôi này, đối với mẹ của Giải Ngữ, bao giờ h́nh ảnh d́ cũng như cái giếng cổ, sâu thẳm và ẩn chứa biết bao tâm sự của bà.

 

-          Cháu vào nhà đi.  Giải Ngữ đang dọn bàn thờ, chắc cũng sắp xong.

 

            Nhưng đă có em đứng chờ tôi trước thềm.  Hai bím tóc đen thả dài, viên ngọc trai với sợi dây chuyền trắng in trên nền áo len nhung màu đen cao cổ.  Viên ngọc biếc lên màu của biển khơi khi em xoay nhẹ theo chiều ánh sáng.  Tôi xao xuyến nhận ra món quà tôi tặng em hôm sinh nhật.  Và riêng tôi, để có món quà tặng Giải Ngữ, không biết tôi phải dành dụm trong bao nhiêu lâu.  Công việc lúc ấy của tôi mỗi buổi chiều sau giờ học là đến săn sóc ông già Steve.  Ông mất cả đôi mắt thời chiến tranh Việt Nam.  Mỗi ngày ngoài công việc chính là mang ông đi tắm và dọn cho ông bữa ăn tối, tôi c̣n phải tả cho ông nghe màu hoa lá chung quanh khu vườn nhà ông.  Rằng "...Sáng nay thức dậy thoảng có mùi hương hoa hồng trong gió ... Hăy nh́n xem hoa hồng đang nở là màu ǵ ...".  Không ngày nào ông không hỏi tôi về sắc lá đỏ của cây maple  trồng ở cuối vườn.  H́nh như mối t́nh ông dành cho ai đó vẫn nồng ấm như màu của thứ cây lá này. Ông hay nhờ tôi đẩy chiếc xe lăn đến kế bên cửa sổ để xoay mặt ra với bầu trời.  Ông run run đưa bàn tay lên như để đón gió chiều c̣n vươn chút hơi ấm của những giọt nắng muộn.  Khuôn mặt ông trở nên mơ màng và ông thầm th́ với chính ông về một điều ǵ đó...

            Giải Ngữ đang cười tươi bỗng thoáng buồn ngang.  Có lẽ em nhận ra hành lư tôi đang xách trên tay.

-          Thưa d́ con đă đốt trầm.  Con chờ d́ vô thắp nhang.

 

            Đây là lần thứ hai tôi bước vào căn pḥng khách nhà Giải Ngữ.  Lần đầu là hôm em đưa tôi về giới thiệu với mẹ.  Giải Ngữ giống mẹ ở đôi mắt.  Đôi mắt lớn một mí có đuôi dài tôi đă nh́n thấy đâu đó trong một bức tranh cổ Nhật Bản.  Bà tiếp tôi lịch sự và xa cách.  Bà hỏi về mẹ tôi.  Thưa mẹ cháu qua đời trong chiến tranh.  Bỗng dưng tôi nhận ra trong đôi mắt của bà có màu xám tối của biển trước phút giông gió.  Từ đó đến khi tôi ra về, bà không nói ǵ thêm.  Chiều hôm ấy có cả d́ Cầm.  D́ khơi chuyện rất khéo khiến cho bữa cơm đỡ nhạt.  Sau đó mẹ em vào nhà trong.

 

" Tôi đọc được vẻ lo âu trong đôi mắt con gái tôi. 

Không như giọng nói có âm sắc cao của người cán bộ đến giao cho tôi tờ biên bản tịch thu ngôi nhà của chúng tôi, người bạn trai của Giải Ngữ nói tiếng Hà Nội, trầm và ấm.  Tôi biết con gái tôi cũng đang mang trái tim say đắm xưa cũ của tôi.  Và người thanh niên ấy lại có giọng nói của anh.  Thuở ấy cuối năm, tôi theo đoàn văn nghệ của trường đến hát ở các tiền đồn.  Tiết tháng chạp trời lạnh như cắt da.  Lúc đoàn sắp về lại thành phố, anh mang đến cho tôi một gị phong lan rừng.  Cũng tiếng nói trầm và ấm trong buổi trưa đầy sương mù ở ASao.  Anh trao cho tôi mảnh giấy có ghi sẵn địa chỉ "KBC..." của anh.  Từ  ấy, mỗi ngày sau giờ tan học, tôi bước vội về nhà để chờ thư anh.  Tôi yêu nhạc Phạm Duy, yêu "Giọt mưa trên lá", yêu câu hát "...cuống quưt, dạt dào, em biết yêu lần đầu..." Trong lớp tôi có Tịnh Nhơn bấm độn rất giỏi. Không ngày nào tôi không chuyền cho hắn miếng giấy "Mi coi giùm tau thử ngày ni tau có thơ không?" Ngày ni là ngày Dần, giờ Th́n... Hắn tính nhẩm trên lóng tay.  Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi... Khi thấy hắn gật gật cái đầu là tôi vui. 

            Phan thường kể cho tôi nghe thời thơ ấu của anh ở Hà Nội.  Anh mang trong tim ḿnh giấc mơ của ngày hồi hương.  Anh sẽ đưa em về thăm quê anh.  Mùa thu Hà Nội thật tuyệt.  Anh yêu vô cùng sương mù trên Hồ Tây.  Tôi chưa bao giờ biết Hồ Tây của anh nhưng tôi đưa anh ra thăm gịng sông của tôi.  Nh́n từ trên đồi cao phía sau Ḍng Thiên An, mặt nước sông Hương lặng yên tưởng như chẳng bao giờ con sông trôi.  Trông qua dăy núi phía tây, đi dần lên phía bắc là nơi anh đóng quân.  Ngày ấy đối với tôi, màu xanh thẳm của núi mang đầy sự bí ẩn.  Chiến tranh siết chặt ṿng vây.  Ngày không ngớt tiếng bom dội.  Đêm không ngớt tiếng đại bác. Tôi sống với trái tim thấp thỏm.  Đơn vị anh rời ASao, đi xuôi dần vào Nam.  Hai năm sau chúng tôi thành hôn.  Giải Ngữ ra đời lúc đơn vị anh đang ở Cổ Thành Quảng Trị ..."

 

            Một lần Giải Ngữ nói với tôi:

 

-          Nếu không hết chiến tranh, sẽ chẳng bao giờ em gặp được anh.

            Cũng sẽ không bao giờ tôi gặp được em nếu chiều hôm ấy tôi không đến dự buổi em biểu diễn dương cầm.  Tôi đă phải dừng lại trước cái tên nghe rất lạ của tấm biển quảng cáo bên Phân viện Âm nhạc.  "Domi Giải Ngữ".  Sao không là "Kathy", "Lindsey" hay "Amy" như tên các cô gái Việt thường chọn mà chỉ đơn giản là "Domi", tên của những nốt nhạc?  Và Giải Ngữ, "con chim biết nói", là tên ông ngoại đặt cho từ thuở lọt ḷng.  Ngày ấy, tôi bị cuốn hút bởi những âm thanh đầy biến hóa từ mười ngón tay thoăn thoắt trên phím đàn của em.  Âm thanh của đất trời vần vũ gió mưa, của những tia chớp biếc xanh vạch ngang dọc.  Âm thanh cuồng nộ của những cơn đau nhức trong đôi tai tật nguyền của người nhạc sĩ.  Hay bất chợt nhỏ xuống từ mười ngón tay của em những tiết tấu cô đơn và sâu thẳm như ánh trăng chiếu qua thảo nguyên.  Cuối buổi diễn, tôi đă đến t́m gặp em.  Em, hai bím tóc thả dài trên vai áo trắng, đường ngôi rẽ giữa cân đối trên khuôn mặt thuôn.  Ngày ấy, chúng tôi chào nhau ngập ngừng.  Và cũng ngày ấy, tôi biết trái tim ḿnh đă rơi vào một cơi khác.

           

            Tôi theo d́ Cầm và Giải Ngữ đi qua pḥng bên cạnh.  Giữa nghi ngút khói hương, tôi chú ư đến nụ cười hiền lành và đôi mắt thông minh pha chút hóm hỉnh của người đàn ông trong ảnh.  Trên ve cổ áo của ông có thêu hai hoa mai màu trắng.  Trung tá là cấp bậc cuối cùng của ông. 

 

            "Ba tôi qua đời ngày ba mươi Tết ở một vùng núi đồi Việt Bắc.  Tôi c̣n nhớ một mùa hè rất xưa, hai mẹ con lấy tàu đi dần lên phía bắc.  Cùng đi c̣n có các bà bạn của mẹ.  Cũng phải sau mấy ngày đêm liền ngủ gối đầu trên chân mẹ, tôi mới đến một thành phố lạ.  Rồi lại chuyển qua đi bằng xe.  Tôi ngồi gọn trong ṿng tay ôm của mẹ, mắt mở thao láo nh́n cảnh người chen chúc đến ngạt thở.  Đến nơi, mẹ kín đáo mua nước sôi đổ thêm vào trong lon Guigoz có sữa đặc với cà phê đen pha sẵn.  Tôi c̣n nhớ tôi lẻo đẽo chạy theo chiếc xe ḅ mỏi chân đến phát khóc.  Vừa cùng các bác đẩy xe, mẹ dỗ dành:

-          Con gắng một tí thôi, con sắp gặp ba rồi đó ...

            Mẹ tôi lại im lặng, mím môi đẩy chiếc xe đang lên con dốc cao.  Trên xe cơ man nào là thùng.  Hôm sắp xếp thuốc bệnh và những thức ăn khô để mang cho ba, mẹ khóc nhiều lắm. Đi măi hoài đến trưa nắng cao mới đến nơi ba ở.  Các bác cùng đi với mẹ tuần tự được gọi để đi qua dăy nhà phía bên kia đồi.  Mẹ sắp xếp lại những chiếc thùng mang đến cho ba đă bị người ta mở tung ra trước đó.  Tôi c̣n nhớ mẹ nhắc tôi niệm Phật.  Niệm Phật để được gặp ba.  Cuối cùng mẹ và tôi cũng được đi qua dăy nhà ở bên kia đồi.  Mẹ lấy đôi quang, gánh mấy thùng thức ăn và quần áo mang cho ba, đôi chân gan ĺ cố bám trên đồi cỏ gai.  Mẹ nhắc chừng tôi cứ theo sát bên mẹ, bước theo bước chân của mẹ mà đi.  Mà nhớ gặp ba là không khóc nghe con.  Mới dặn tôi đừng khóc mà giọng mẹ đă nghẹn... Hai mẹ con lại ngồi chờ trong dăy nhà trống lốc đầy gió.  Buổi trưa có tiếng gà eo óc gáy.  Cuối cùng ba tôi đến.  H́nh như ba đến từ phía khu rừng vừa có tiếng gà.  Trông thấy ba, mẹ níu lấy tay tôi chặt hơn, hai con mắt mẹ mở lớn nh́n trân phía trước.  Ba mẹ tôi chỉ nh́n nhau và im lặng thật lâu.  Cùng đi với ba c̣n có một người, rất lặng lẽ.  Ông ta lặng lẽ ngồi bên một chiếc bàn gần đó, quay mặt về phía khu rừng có tiếng gà.  Bế tôi trong ḷng, ba ngồi đối diện với mẹ, cách nhau một mặt bàn.  Lúc mẹ trao cho ba lon sữa cà phê pha sẵn từ sáng sớm, ba cầm lên nốc một hơi không nghỉ.  Tôi c̣n nhớ mẹ đưa rất nhanh chiếc khăn tay chấm lên mắt để ba không trông thấy.  Khi ba húng hắng ho, mẹ tôi nói nhỏ:

-          Em có đem thuốc cho anh.

            Nếu trong buổi gặp ba, mẹ kềm ḷng giữ lại nước mắt bao nhiêu th́ trên đường về mẹ tôi khóc như chưa bao giờ được khóc.  H́nh như mẹ đă quên có tôi bên cạnh.  Tiếng mẹ khóc nghe sao mà thảm sầu giống như lần d́ Khang khóc chồng chết trận.  Tiếng nấc của mẹ đậu lại trên từng bụi cỏ gai nhuốm nắng chiều.  Tôi quay lại nh́n hướng ngọn đồi nơi có ba tôi và tiếng gà trưa.  Chỉ một màu sương loảng trong nắng yếu.  Rồi sương mù đến thật nhanh.  Mẹ thảng thốt níu chặt lấy tay tôi.  Bận về mẹ đi nhẹ tênh thế mà chân trượt không biết bao lần trên đồi cỏ gai.

            Chỉ nửa năm sau lần gặp ấy, ba tôi qua đời.  Sau này, các bác, bạn của ba, về kể lại trước lúc mất, ba chỉ thèm được ăn một viên kẹo.  Tin rỉ tai chuyền đi trong lán "ai có kẹo xin hăy cho một người hấp hối đang nằm ở bệnh xá".  Khi viên kẹo đến được trong tay th́ ba tôi đă tắt hơi.  V́ thế trong mâm cơm giỗ ba chiều cuối năm, không bao giờ mẹ tôi quên cúng một hộp kẹo.  Bao giờ cũng là chiếc hộp bằng giấy bạc thắt  dây nơ màu trắng.  Khi tuần nhang sắp tàn, mẹ tôi pha trà rồi cẩn thận mở hộp kẹo.  Từ mười mấy năm nay, tôi đă thuộc nằm ḷng cách sắp xếp của từng viên kẹo chocolat xinh xắn màu nâu óng ấy ..."

 

            Những ghi chép rời Giải Ngữ vừa đưa cho tôi đọc là chiếc ch́a khóa.  Cánh cửa của định mệnh  đă mở tung  và hất tôi xuống vực thẳm.  Tôi đă hiểu ra khoảng cách vô h́nh giữa gia đ́nh em và tôi ngay từ buổi gặp đầu tiên.  Bên ngoài vuông cửa sổ rộng, cả một bầu trời chiều mênh mông buồn.  Không hiểu v́ sao và từ lúc nào, màu nắng vàng trên hàng cây bao giờ cũng khiến ḷng tôi vừa xao xuyến, vừa thảng thốt như sắp mất đi một điều ǵ đó vô cùng yêu dấu.  Trên mảng nắng trải dưới thung xa kia, tôi như nh́n thấy lại bố tôi, người lính Trường Sơn trở về sau chiến tranh, một mảnh đạn c̣n nằm im trong thân thể.  Những hôm sau lũ, bố thường rủ tôi đạp xe về phía con đê.  Phơi trên băi sông không biết cơ man nào là rác rưởi, củi và rễ cây khô.  Dưới mắt bố, mỗi nhánh rễ khô cũng có đời riêng của nó. 

-          Này Huân, con có trông ra đây là h́nh dáng con nai đang ngước cổ nh́n trăng không?

hay là:

-          Khúc này bố sẽ làm "Cô Tấm đi hội làng"... Gớm, cái đầu khúc gỗ này sao trời đất khéo tạc giống h́nh người chít khăn mỏ quạ thế không biết?

 

            Bố tôi vui ra mặt.  Thiên nhiên hào phóng đă mang lại cho ông niềm vui.  Tôi giúp bố cho những rễ cây vào bao.  Dọc hai bên tường căn hộ bé xíu của bố con chúng tôi, những bức tạo h́nh ghép bằng rễ cây của bố sắp đầy kín mấy hàng kệ gỗ.  Nơi đó là thế giới riêng của bố tôi.  Kỷ niệm trong ông vang âm dạt dào như chiếc phong linh.  Và trong ông, kỷ niệm cũng là mảnh đạn im ĺm, biết trở đau vào mùa nổi gió.  Những hôm vui, bố tôi thường hát khẽ "...Xuân đă đem mong nhớ trở về ..." (**).  Giọng ông run khiến chữ "mong nhớ" bị nghẽn lại, không thoát ra được khỏi cổ họng.  Tôi quay sang nh́n bố, chỉ thấy chiếc lưng hơi c̣ng của ông.  Tấm áo bông xanh bạc sờn.  Rồi gió đông cũng mang đi câu hát.  Chỉ c̣n để lại nỗi mong nhớ cho ông.

            Trong số tranh tạo h́nh của bố, tôi thích nhất bức "Mẹ và Con".  Bô' chưng bức tranh ấy riêng, trên cái giá gỗ nâu bóng gần chiếc ghế mây bố tôi thường ngồi đọc sách và uống trà.  Tôi c̣n nhớ đă lâu lắm, bố bỏ cơm suốt gần cả tuần, miệt mài làm nên bức ấy.  Trong khoảng thời gian đó, bố tôi thuộc về một cơi khác.  Sau này lớn lên, tôi mới nhận ra được cái thần của bức tranh.  Cũng từ nhánh rễ khô h́nh thành một nhân dáng.  Người đàn bà cúi xuống đứa con ḿnh đang bế trên tay.  Những đường gân li ti của sứa gỗ làm tôi mường tượng ra những nếp nhăn trên tấm áo cũ của mẹ tôi.  Thuở ấy bố đi chiến trường.  Ở nhà, tôi làm "cái đuôi" của mẹ.  Chiến tranh đối với tôi ngày đó như trong chuyện cổ tích.  Từ  trong căn hầm trú bom nghe bên ngoài như có cả ngàn vạn chiếc tách vỡ.  Rồi cả sấm chớp đánh ngang đầu.  Tôi run như con dế trong ḷng mẹ tôi.  Cho đến một ngày, tôi chỉ c̣n nhớ tôi khóc thất thanh v́ có một vật ǵ đó rất nặng đè lên người hai mẹ con tôi.  Trời đất vần vũ như đang giông tố.  Tôi ôm chặt lấy mẹ, gào lên mẹ ơi, nhưng sao lạ lùng thay, đó là lần đầu tiên mẹ không trả lời tôi. 

            Sau ngày hôm ấy, tôi biết là không bao giờ tôi c̣n mẹ.

 

 

            Hai ngày sau khi xuống chiếc xuồng con phía sau chợ Rạch Giá, tàu chưa tới Song-Kla th́ gặp băo.  Con gái tôi nằm thiêm thiếp trên tay chị Cầm.  Không c̣n nước uống.  Con tàu như chiếc lá chơi vơi giữa cuồng phong.  Chợt một tiếng thất thanh từ bóng đêm tuyệt vọng:

-          Tuồng như có tàu ... tui thấy đèn...

 Giờ đây ánh đèn là niềm hy vọng, là sự sống.  Có tiếng nhao nhao từ dưới hầm tàu:

-          Chắc là tàu Mỹ

-          Mỹ, hải tặc ǵ cũng được... miễn sống...

-          Lạy trời ... Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu nạn cứu khổ ...

-          Chú Chín, nhá đèn lên cho nó thấy ḿnh đi ...

            Giữa giây phút hỗn mang của sự sống và sự chết, đám người từ chiếc tàu cứu tinh kia đổ xuống c̣n hơn băo biển.  Chiếc tàu nhỏ cḥng chành sắp ch́m.  Vàng!  Dường như đă biết trước, chú Chín hét to:

-          Bà con ai có ǵ th́ lo bỏ ra... Tui nói rồi đó nghen...

            Hai gă đàn ông nhảy xuống hầm tàu, một tên ném mạnh cái thùng sắt xuống gần chỗ chú Chín ngồi.  Mỗi người trên tàu tự động đem của nả mang theo, bỏ vào trong cái thùng ấy.  Không ai dám ngước mặt lên.  Ánh đuốc đỏ rực trên tay gă đàn ông quấn khăn trên đầu khiến mọi người ngạt thở. Chị Cầm đẩy nhanh Giải Ngữ về phía tôi và cùng lúc, nhẹ giằng lấy cái túi nhỏ nữ trang trong tay tôi rồi lết về phía chiếc thùng sắt. Nhưng không qua mặt được gă quấn khăn.  Hắn ra hiệu cho tôi phải giao con lại cho chị Cầm.  Rồi sau đó ... tôi không bao giờ c̣n muốn nhớ lại.

            Khi lớn hơn, con gái tôi sẽ hiểu v́ sao ông Ash có mặt trong cuộc đời của mẹ nó.  Sau năm ngày neo tàu giữa biển, chúa đảng cho kéo tàu của chú Chín vào gần bờ Song-Kla.  Lúc thả tôi về lại tàu nhỏ, gă đàn ông kinh hoàng nhất thế gian không quên nhắc lại y sẽ vào trại tỵ nạn t́m tôi để đưa về làm vợ.  Năm lần trăng lên rồi trăng lặn, tôi đă mấy lần toan nhảy xuống biển.  Nhưng c̣n con gái tôi ở bên con tàu kia.  Nó vừa mồ côi cha chỉ mấy tuần trước... Vào trại, tôi t́m đến văn pḥng Cao Ủy.  Ash lúc ấy đang làm việc ở đó.  Ash, người gốc Ấn, đă trải qua thời tuổi trẻ của ḿnh ở vùng chân núi Hy Mă, thọ giáo với một thiền sư.  Sau khi thầy qua đời, Ash xin đến làm việc ở các trại tỵ nạn.  Và nếu tên của Ash đồng nghĩa với tro bụi, th́ cũng từ tro bụi ấy tôi tái sinh một cuộc đời khác.

 

 

            Sau buổi ăn tối, không khí bỗng dưng trầm xuống.  D́ Cầm dọn mứt gừng rồi pha trà mời tôi.  Giải Ngữ đến bên đàn.  Ḷng tôi đang ở ngay mắt băo.

            Avalanche(***). Tên bản đàn Giải Ngữ dành cho tôi trước lúc chia tay.  Avalanche  chỉ là một bài étude ngắn em học lúc mười hai tuổi.  Gần cả mười năm nay, em nói không ngày nào em không chơi đoản khúc ấy.  Em thích nhan đề của bản đàn.  Avalanche.  Băo tuyết.  Cơn băo đă ứng vào chuyện t́nh của em.  Từ ngày em gặp anh.

            Tôi lặng người trong góc pḥng.  Lúc ngồi vào ghế đàn, em là h́nh ảnh chim thiên nga cúi nh́n bóng ḿnh trên mặt hồ.  C̣n tôi là cuộn cỏ bồng rối khô lăn trong cơn lốc âm thanh của em.  Cơn gió vút đi cuốn em ĺa xa tôi và bức màn tuyết mênh mông chia ĺa em và tôi.  Rồi bỗng nhiên bản đàn chậm lại.  Cơn băo ngừng.  Nhưng tuyết trắng đă làm mất dấu của em.  Nốt nhạc cuối cùng rơi xuống như giọt nước và đọng lại trong mắt em.  Tôi biết là ḿnh sắp mất nhau. 

            Đúng mười giờ đêm, có tiếng chuông gọi cửa.  Người lái tắc xi ban chiều đă quay trở lại.  Hương đêm đẫm mùi cỏ ướt.  Giải Ngữ và tôi bước theo sau d́ Cầm, tay em ấm trong tay tôi.  Phải chi những phiến đá xanh cứ trải dài cho em và tôi đi bên nhau suốt trăm năm.  Phải chi đêm chẳng bao giờ tàn và sáng mai mặt trời ch́m tan trong biển khơi.  Sẽ có thêm một lần nào tôi được nắm tay em và đưa em về thăm sương mù trên Hồ Tây?  Tôi cũng sẽ đưa em về lại nơi em chào đời, có gịng sông nước đă xanh từ thiên cổ. Có bao giờ không em?

           

            Lúc xe xuống tới chân đồi, tôi nh́n lên phía sau chỉ âm u bóng đêm.  Nơi ấy, trong khu vườn quạnh hiu, có con chim đang đứng hót một ḿnh.  

 

  2/2002

 (*) Truyện đă đăng trên Tạp chí VĂN, Số 63 & 64 (thang 3&4 năm 2002), San Jose (CA), với bút hiệu   “Trần Thị Thái Khương

(**) Lời của bản nhạc "Cô lái đ̣"

(***) Stephen Heller, Avalanche  op 45, no 2