ĐỢI CÁNH RỒNG
|
Nhìn về lịch sử xa xưa, Hàn Quốc cũng có một thời tương tự với thời Tam Quốc của Trung Hoa, gọi là Tam Hàn (kéo dài từ năm 57 trước TL đến năm 935 sau TL). Ðất nước này lúc ấy bị phân chia thành 3 tiểu quốc gọi là Cao Lệ, Bách Tế và Tân La. Và sử sách của Tân La, triều đại về sau thống nhất Hàn Quốc, có nói đến một trò chơi gọi là chuk-guk mà cả vua quan đều say mê: họ giành nhau một vật gì giống như quả bóng ngày nay, đến nỗi rách cả triều phục. Có thể đấy là tiền thân của môn bóng đá ở Hàn Quốc.
Còn môn bóng đá chính hiệu Anh Quốc với luật lệ hiện hành thì chỉ đổ bộ xuống các cảng Incheon và Jemulpo của Hàn Quốc theo chân thủy thủ của thương thuyền Cá Bay (Flying Fish) vào năm 1882. Sau khi chơi với nhau, không biết vô tình hay cố ý, họ bỏ quên lại trên đê một quả bóng, thế là nó bắt đầu lăn. Trước sự phổ biến ngày càng rộng của trò chơi mới, bóng đá được ghi vào chương trình học của trường ngoại ngữ hoàng gia năm 1904, và sau đó được dạy trên khắp nước.
*
Tuy nhiên, bóng đá chỉ được tổ chức có qui mô ở Hàn Quốc từ năm 1920, nghĩa là 10 năm sau khi đất nước này trở thành thuộc địa của Nhật Bản. Một giải vô địch bóng đá toàn quốc ra đời vào năm 1921, và một hình thức tổ chức quản lý các cuộc thi đấu cũng thành hình vào năm 1928, trước khi chính thức mang danh là Liên Ðoàn Bóng Ðá Triều Tiên năm 1933 (Triều Tiên là tên cũ của Hàn Quốc). Trong suốt thời kỳ lệ thuộc, bóng đá tiếp tục phát triển nhờ một nhân tố quan trọng và rất được quần chúng hâm mộ: loạt tranh tài bắt đầu vào năm 1929 giữa hai thành phố lớn nhất nước là Pyongyang [Bình Nhưỡng] với Kyungsung [Séoul = Xêun bây giờ] mà ngày nay nhìn lại, người dân xứ này khó lòng không nghĩ đến bàn tay kỳ quái của «định mệnh».
Khi Nhật thất trận thê thảm và sự đô hộ của Nhật cáo chung sau thế chiến thứ hai, tổ chức bóng đá quốc gia đổi tên thành Liên Ðoàn Bóng Ðá Hàn Quốc năm 1948. Mặt khác, năm này cũng chứng kiến sự xuất hiện song song của hai nhà nước cừu địch, với hai nền bóng đá cạnh tranh trên trường quốc tế. Về chính trị, Cộng Hoà Hàn Quốc và Cộng Hoà Nhân Dân Triều Tiên ra đời cách nhau chỉ một tháng; về bóng đá, để khẳng định sự tồn tại của mình, Nam Hàn gia nhập Tổng Liên Ðoàn Bóng Ðá Thế Giới FIFA (trước Bắc Hàn 10 năm), đồng thời tham dự Thế Vận Hội lần thứ 12 ở Luân Ðôn. Sau cuộc nội chiến (1950-1953), Nam Hàn cũng đăng ký ngay vào Tổng Liên Ðoàn Bóng Ðá Á Châu AFC vừa được thành lập năm 1954.
Kể từ đây, Hàn Quốc trở thành quốc gia Viễn Ðông đầu tiên được biết đến về bóng đá, với những thành tích thuộc vào loại cừ ở Á Châu: Cộng Hoà Hàn Quốc (Nam Hàn) tham dự Giải Vô Ðịch Bóng Ðá Toàn Cầu lần này nữa là lần thứ 7 [1] trong khi Cộng Hoà Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn) chỉ mới góp mặt được một lần (Anh, 1966). Riêng ở Á Châu, Nam Hàn đoạt cúp vô địch Á Châu 2 lần (1956, 1960). Suốt thập niên 1960, đội bóng Nam Hàn tung hoành và được các đối phương tặng cho danh hiệu là đoàn «mãnh hổ Châu Á», đúng như biểu tượng trên cờ hiệu. Nam Hàn còn là liên đoàn bóng đá tiên tiến trong nhiều lãnh vực khác: đăng cai tổ chức một giải vô địch quốc tế cho Á Châu kể từ năm 1971 (từng gọi là Cúp Park, Cúp Tổng Thống Park, Cúp Tổng Thống, rồi Cúp Hàn Quốc từ 1995) và một giải vô địch nhà nghề trong xứ kể từ năm 1983 (với hiện thời 10 câu lạc bộ, và trên dưới 3 triệu khán giả mỗi năm).
Bốn năm trước, được FIFA giao cho trọng trách tổ chức World Cup 2002 chung với Nhật Bản, Cộng Hoà Hàn Quốc trưởng thành thêm một bước. Khác với Bắc Triều Tiên, bất ngờ vào đến tứ kết năm 1966 với chỉ một lần tham dự, Nam Hàn chưa vượt thoát được vòng đầu lần nào, do cũng chưa thắng được trận nào, sau 5 lần dự giải. Ngày nay, Nam Hàn dẹp bỏ tự ái để mời một HLV Âu Châu là Guus Hiddink hướng dẫn. HLV trưởng gốc Hà Lan này đã nêu ra 3 nhược điểm chính của đội bóng lúc đó được xếp thứ 41 trên thế giới trong bảng xếp hạng của FIFA: thiếu một nhạc trưởng có tầm cỡ, thiếu trao đổi giữa các tuyển thủ do tập quán «kính lão», và đấu pháp phòng ngự cá nhân.
Hiddink đưa nhiều cầu thủ trẻ vào đội hình, từ chối giữ một đội hình duy nhất mà uyển chuyển thay đổi tùy theo đối phương, và nhất là chủ trương phòng ngự theo vùng. Bốn trận đấu cuối cùng trong chuyến «du học» của đội bóng từ mấy tháng nay cho thấy ông đang ráo riết cải tiến lối phòng ngự, vì tin rằng Nam Hàn phải chơi phòng ngự - phản công trong ít nhất 2 trận (trước Ba Lan và Bồ Ðào Nha). Ông đã đoạt được nhiều kết quả khả quan: chỉ thua Uruguay 1-2, hòa với Tunisie 0-0, thắng Phần Lan 2-0, hoà với Thổ Nhĩ Kỳ 0-0.
Về cầu thủ, ngoài một Hong Myung Bo giàu kinh nghiệm (33 tuổi, 122 lần được tuyển), Hiddink có thể trông cậy ở nhiều cầu thủ đầy tham vọng đang chơi trong các giải vô địch ở Âu Châu (Lee Dong Gook, Ahn Jung Hwan, Seol Ki Hyeon), ở Úc (Choi Sung Yong), hay Nhật (Park Ji Sung, Yoon Jong Hwan, Choi Yong Soo, Hwang Sun Hong), và ngay cả trong nước. Liệu họ sẽ có đủ khả năng đáp ứng chăng kỳ vọng của cả một nước đang trông đợi nhìn thấy mãnh hổ của mình hoá rồng, cất cánh vào vòng 2 của World Cup, sau khi đã mọc cánh bay vào quỹ đạo của thế giới công nghiệp?
*
Đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng chung cuộc của World Cup 2002 là một phép lạ mà có lẽ ngay chính Nam Hàn cũng không chờ đợi. Người ta có thể giải thích kỳ tích này bằng nhiều lý do: lợi thế của nước tổ chức (ý chí cầu thủ, nhiệt tình khán giả), thể lực «sâm Cao Ly», tài cán hay may mắn của Guus Hiddink. Tất cả đều đúng, song vẫn còn thiếu sót nếu không nói đến thời gian thi đấu: bắt đầu vào cuối tháng 5 thay vì giữa tháng 6 để tránh mùa giông bão quen thuộc ở vùng Đông Nam Á, «World Cup 2002 là cuộc thi đấu của sự mệt mỏi» đối với phần lớn các đội bóng ngoài 2 nước tổ chức, theo lời cựu tuyển thủ Đức và nay là Trưởng Ban Tổ Chức Weltmeisterschaft 2006 Franz Beckenbauer.
Do cầu thủ không kịp dưỡng sức sau một giải vô địch quốc gia kéo dài đến cận ngày khai mạc World Cup, hầu hết các đội tuyển Âu Châu không dồi dào thể lực (chủ yếu thuộc nhóm các quốc gia la tinh: Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha, Ý) hay các đội Nam Mỹ có nhiều tuyển thủ chơi ở Tây Âu đều đến dự vòng chung kết trong tình trạng ít nhiều phờ phạc. Nam Hàn đã thắng Bồ Đào Nha 1-0, Ý 2-1, Tây Ban Nha 0-0 rồi 5-3 trong loạt đá luân lưu, chủ yếu nhờ sức chịu đựng bền bỉ hơn; còn Pháp bị loại ngay từ vòng đầu như Achentina. Điều này không hạ giá chiến công của Nam Hàn, nhưng «mãnh hổ cánh rồng» nay phải tái lập một thành tích tương đương, nếu muốn khoá miệng kẻ lắm chuyện.
Cuộc thi đấu giành vé đến Đức không suôn sẻ như dự tính. Được mời thay Guus Hiddink, HLV trưởng gốc Bồ Đào Nha Humberto Coelho mất việc ngay từ trận thứ hai, vì chỉ thủ hoà với đội yếu Maldives 0-0 trên sân địch, và bị thay thế bởi Jo Bonfrère, cùng quê hương với kẻ đã thực hiện giấc mơ của Nam Hàn 4 năm trước. Trừ một trận hoà 1-1 trên sân Liban, Jo thắng tất cả các trận còn lại, đẩy Liban, Maldives và Việt Nam ra rìa để vào đợt 2 của vòng loại. Vì một trận hoà 1-1 với Ouzbekistan trên sân địch và 2 trận thua Ả Rập Xê Út (0-2 ở Dammam, 0-1 trên sân nhà), dù đoạt được vé thứ nhì tham dự Weltmeisterschaft 2006 với 3 trận thắng và loại được Koweit với Ouzbekistan, Jo lại phải nhường chỗ cho HLV Hà Lan thứ ba là Dick Advocaat: ở đây người ta không đùa với chiến thắng.
Thời cầu thủ, Dick chơi ở hàng giữa với phong cách «phu khuân vác» hơn là «thi sĩ», và đã từng đá cho các câu lạc bộ Hà Lan (Ado, VVV Venlo, Sparta Rotterdam, Utrecht, Haarlem) cũng như Bỉ và Hoa Kỳ. Sự nghiệp HLV của Dick bắt đầu năm 1984, khi ông được Rinus Michel, nhà chiến lược của Ajax và đội tuyển quốc gia gọi vào tăng cường ban kỹ thuật của Liên Ðoàn Bóng Ðá. Từ đấy, sự nghiệp HLV của Dick qua lại giữa một số câu lạc bộ trong nước (Haarlem, SVV/Dordrecht’90, PSV Eindhoven) hay ngoại quốc (Glasgow Rangers, Borussia Mönchengladbach) với đội tuyển áo cam. Sau 2 lần làm phụ tá cho Rinus Michel (Mondiale 1990, Euro 1992), Dick được mời làm HLV trưởng. Tại World Cup 1994, ông đưa đội nhà vào gặp Brazin ở vòng tứ kết và chỉ thua đội sẽ đoạt chức vô địch này 2-3. HLV Louis Van Gaal không đoạt được vé tham dự World Cup 2002 cho Hà Lan, «tiểu tướng lãnh» (biệt danh của Dick, để phân biệt với «đại tướng lãnh» Rinus) lại được mời cầm quyền trong chiến dịch Euro 2004, và đội áo cam chỉ bị đội chủ nhà Bồ Đào Nha loại 2-1 ở vòng bán kết. Từ năm 2005, ông nhận trách nhiệm HLV trưởng đội Nam Hàn, với những kết quả nói chung là khả quan.
Về phía cầu thủ, đội tuyển kỳ này mất một nửa số tuyển thủ cốt cán của 4 năm trước: Hong Myung Bo đã treo giày để vào ban kỹ thuật sau 135 lần được tuyển, Yoo Sang Chul, Hwang Sun Hong, Choi Yong Soo, Kim Tae Young cũng rút lui, còn Lee Dong Gook bị chấn thương, Dick chỉ vớt lại được Choi Jin Cheul (dù đã 35 tuổi). Với tuổi trung bình của 23 cầu thủ được tuyển xấp xỉ mức 26, bài toán khó của HLV là tìm ra đội hình tối ưu cùng với thế quân bình ở cả 3 hàng thủ, giữa và công, để có thể vừa sử dụng được cả kinh nghiệm của nhóm lính già (6 ông trên 30, 13 ông trên 25) lẫn sự hăng say của đám tân binh (10 cậu dưới 25, 8 dưới 23). Liệu sâm Cao Ly còn đủ để tăng cường sức chịu đựng của các lão tướng vẫn chiếm đa số trong đội hình lý tưởng trên giấy tờ chăng, trước các đội dồi dào thể lực và ít mệt hơn 4 năm trước? Mấy trận đấu chuẩn bị chưa mang lại giải đáp dứt khoát, dù thất bại 0-2 trước Ghana là lời cảnh cáo miễn phí rất đáng quan tâm.
VÕ QUANG HÀO
World Cup 2002
Weltmeisterschaft 2006
CỘNG HOÀ HÀN QUỐC
(NAM HÀN)
QUỐC GIA |
||
Diện tích: Dân số: Mật độ TSP quốc nội/đầu người Tuổi thọ bình quân |
99.000 km2 hơn 48 triệu 490,34/km2 19400 đô la/năm 75-76 tuổi |
|
TỔ CHỨC |
||
Liên Đoàn Bóng Đá Hàn Quốc (Nam Hàn) [Korea Football Association]
Số cậu lạc bộ đăng ký: Số cầu thủ đăng ký: |
Năm thành lập Năm gia nhập FIFA Năm gia nhập ACF Asian Football Confederation
|
1933 1948 1954
|
Đứng tên tổ chức |
|
|
THÀNH TÍCH |
||
Cúp Vô Địch Toàn Cầu [FIFA World Cup] |
Tham dự vòng chung kết 7 lần (1954, 1986, 1990, 1994, 1998, 2002, 2006) |
Vào đến bán kết năm 2002, (thua Đức 0-1), đứng thứ 4 (thua Thổ Nhĩ Kỳ 2-3). |
Cúp Tổng Liên Đoàn [FIFA Confederation Cup] |
|
|
Cúp Á Châu [Asian Cup]
|
|
Vô địch 2 lần (1956, 1960) Vào chung kết 3 lần (1972, 1980, 1988)
|
Trên bảng xếp hạng FIFA
|
Đứng thứ 30 |
Trước WM 2006 |
Thế Vận Hội (môn bóng đá) [Olympic Games]
Á Vận Hội (môn bóng đá) [Asian Games] |
|
Vô địch 3 lần (1970, 1978, 1986) |
Cầu thủ xuất sắc |
|
|
DANH SÁCH TUYỂN THỦ |
||
SỐ ÁO, TÊN HỌ |
TUỔI, LẦN TUYỂN, BÀN |
CÂU LẠC BỘ |
Thủ môn: 3 |
|
|
01 LEE Woon Jae |
33 tuổi, 95 lần. |
Suwon Samsung |
20 KIM Yong Dae |
26 tuổi, 15 lần. |
Seongnam Ilhwa |
21 KIM Young Kwang |
23 tuổi, 05 lần. |
Chunnam Dragons |
Hàng thủ: 8 |
|
|
02 KIM Young Chul |
30 tuổi, 10 lần, 01 bàn |
Seongnam Ilhwa |
03 KIM Dong Jin |
22 tuổi, 33 lần, 02 bàn |
FC Seoul |
04 CHOI Jin Cheul |
35 tuổi, 61 lần, 04 bàn |
Chonbuk Hyundai |
06 KIM Jin Kyu |
21 tuổi, 21 lần, 03 bàn |
Jubilo Iwata (Nhật) |
12 LEE Young Pyo |
26 tuổi, 83 lần, 05 bàn |
Tottenham Hotspur (Anh) |
18 KIM Sang Sik |
30 tuổi, 40 lần, 02 bàn |
Seongnam Ilhwa |
22 SONG Chong Gug |
27 tuổi, 49 lần, 03 bàn |
Suwon Samsung |
23 CHO Won Hee |
20 tuổi, 13 lần, 01 bàn |
Suwon Samsung |
Hàng giữa: 7 |
|
|
05 KIM Nam Il |
29 tuổi, 65 lần, 01 bàn |
Suwon Samsung |
07 PARK Ji Sung |
25 tuổi, 59 lần, 05 bàn |
Manchester United (Anh) |
08 KIM Do Heon |
23 tuổi, 31 lần, 05 bàn |
Seongnam Ilhwa |
13 LEE Eul Yong |
30 tuổi, 46 lần, 02 bàn |
Trabzonspor (Thổ Nhĩ Kỳ) |
15 BAEK Ji Hoon |
21 tuổi, 11 lần. |
FC Seoul |
17 LEE Ho |
22 tuổi, 10 lần. |
Ulsan Hyundai |
Hàng công: 5 |
|
|
09 AHN Jung Hwan |
30 tuổi, 59 lần, 16 bàn |
MSV Duisburg (Đức) |
10 PARK Chu Young |
20 tuổi, 17 lần, 05 bàn |
FC Seoul |
11 SEOL Ki Hyeon |
27 tuổi, 65 lần, 13 bàn |
Wolverhampton (Anh) |
14 LEE Chun Soo |
26 tuổi, 61 lần, 07 bàn |
Ulsan Hyundai |
16 CHUNG Kyung Ho |
26 tuổi, 39 lần, 05 bàn |
Gwangju Sangmu |
19 CHO Jae Jin |
24 tuổi, 19 lần, 05 bàn |
Shimizu S-Pulse (Nhật) |
Đội hình dự kiến, nếu chơi 4-4-2:
Lee Woon Jae
Lee Young Pyo, Kim Jin Kyu, Choi Jin Cheul, Song Chong Gug
Kim Do Heon, Kim Nam Il, Park Ji Sung, Lee Eul Yong
Ahn Jung Hwan, Seol Ki Hyeon
VÕ QUANG HÀO
Weltmeisterschaft 2006