NhiemVuCuoi

Nhận định chính trị

 

 

NHIỆM VỤ CUỐI

 

 

 

Nằm mộng thấy Lê-Nin lại bảo,

Ra công t́m kiếm gạo từ đây,

Tao thôi chẳng có nuôi mầy...

 (Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tân trang)

 

 

 

 

 

1. CÁI GIƯỜNG CỦA PROCUSTE 

 

«ĐỔI MỚI»? Chủ nghĩa cộng sản là một hệ thống: những chính sách, chủ trương của nó, mặc dù không có cùng tầm quan trọng, vẫn gắn bó chặt chẽ với nhau như chuỗi khâu của một dây xích. Có những khâu có khả năng quy định các khâu khác và mang tính chủ động; có những khâu bị quy định và chỉ mang tính thụ động. Đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện này, nói cho cùng, là đặt vấn đề thay đổi khâu nào, để một sự biến đổi, tùy theo ư muốn của người khởi xướng, có thể hay không có thể gây ra một phản ứng dây chuyền, có khả năng phát động hàng loạt đổi thay khác, thậm chí đi đến chỗ cải tổ luôn cả bản chất của toàn bộ hệ thống.

 

«CỞI TRÓI»? Chủ nghĩa cộng sản c̣n thuộc loại quá tŕnh nhằm áp dụng một học thuyết vào những hoàn cảnh lịch sử xă hội cụ thể, đặc thù. Cho đến bây giờ, đây là một quá tŕnh vừa xuống cấp vừa tự trói: mỗi bước «phát triển» là một sự đơn giản hóa tư duy sáng tạo thành công thức máy móc, và tự trói ḿnh vào những giáo điều khô chết đó. Từ Karl Marx xuống đến Trường Chinh, qua Lênin, Stalin và Mao, chủ nghĩa Marx đă trở thành một thứ chủ nghĩa kinh viện mới. Hô hào cởi trói trong điều kiện này, nói cho cùng, là kêu gọi thoát ly ra khỏi ảnh hưởng tê liệt của những công thức giáo điều ở mọi cấp bậc để, từ thấp lên cao, trở về với tư duy sáng tạo.

 

Tại sao lại phải «đổi mới», phải «cởi trói»? V́ khi vào đến Việt Nam, chủ nghĩa Marx đă trở thành cái giường của Procuste. Trong thần thoại Hy Lạp, đạo tặc Procuste là hung thần của khách qua lại vùng Attique. Sau khi cướp của, Procuste thường đặt những nạn nhân của hắn lên một cái giường đặc biệt bằng sắt, tay chân ai dài quá kích thước của giường sẽ bị chặt đi, tay chân ai quá ngắn sẽ bị kéo dài ra cho vừa với kích thước của giường. Trên cái giường tử thần đó, dĩ nhiên là những nạn nhân của y chỉ c̣n có nước giăy chết. Về sau, Thésée đă bắt Procuste phải đền tội cũng bằng chính cực h́nh này. Procuste là Đảng Cộng Sản Việt Nam, những nạn nhân của hắn là các thành phần dân tộc Việt Nam, và cái giường quan tài chính là chủ nghĩa cộng sản.

 

2. «ĐỔI MỚI» HAY ĐỔI TIỀN TÂN TRANG

 

T́nh thế hiện nay ở Việt Nam không thể nào kéo dài măi măi. Ai cũng biết như thế và ai cũng chờ đợi một sự thay đổi. Khi nghe nhóm ông Nguyễn Văn Linh phát động đổi mới, tôi đă hy vọng: có lẽ Trung Ương Đảng cũng không đến nỗi đui mù như người ta vẫn sợ. Được tin ông Đỗ Mười lên làm thủ tướng để thực hiện đổi mới, tôi đâm lo: giữa khái niệm «đổi mới» và tên họ ông Đỗ Mười, không có cái ǵ chung, ngoài hai chữ viết tắt. Rồi nghe nói ông Trường Chinh, trước khi đi gặp lại các cụ Marx, Lênin, Stalin, cũng hô hào đổi mới, tôi phát hoảng thực t́nh: «lư thuyết gia» này vốn là quan «Stalin đại học sĩ» của triều đại Hồ Chí Minh. Cho đến khi, t́nh cờ được đọc hai bài diễn văn của ông Linh, Đổi Mới Tư Duy và Phong Cách (đọc tại Trường Đảng Cao Cấp Nguyễn Aí Quốc, ngày 06-05-1987) cùng với Đổi Mới Sâu Sắc và Toàn Diện trên Mọi Lĩnh Vực Hoạt Động (đọc trước Quốc Hội, ngày 17-06-1987), tôi mới vỡ lẽ.

 

Chuyện «đổi mới» cũng giống như chuyện đổi tiền. Đồng bạc anh cầm trong tay có thể là mới toanh v́ mới ra khuôn, nhưng ngoài cái sự mất giá như xe tuột dốc không phanh, nó chỉ là hiện thân của một chính sách cũ mèm là vô sản hoá tất cả mọi người, cái ư đồ này lại xuất phát từ một chế độ cũ rích là chuyên chính vô sản, hậu quả tất nhiên của một thế giới quan cũng cũ x́ là đấu tranh giai cấp. Một sự đổi mới chính danh phải bắt đầu bằng việc vất bỏ vào thùng rác những cái cũ x́, cũ rích, cũ mèm đó đi. Đổi mới thật sự phải là loại trừ những nguyên nhân đă gây ra những hiện tượng tiêu cực (cán bộ dốt nát, tham nhũng, ác ôn, v.v...), chứ không phải là chỉ cải thiện đôi chút những cái tiêu cực đó trong khi vẫn duy tŕ loại nguyên nhân đă sản sinh ra chúng.

 

Đọc ông Linh, tôi không thấy cái quyết tâm đó, mà ngược lại. Ông tố cáo «những người nhân danh tư duy mới để phủ định những nguyên lư cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin»; theo ông, «nói đổi mới tư duy hoàn toàn không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lư luận và quan điểm đúng đắn của Đảng, phủ nhận các quy luật phổ biến của cách mạng xă hội chủ nghĩa, trái lại, cần tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển thêm những thành tựu đó» [01] .Thực chất của phong trào gọi là đổi mới này, như vậy, đă rơ ràng: nó chỉ là một sự vận động loanh quanh, luẩn quẩn trong khuôn khổ của một chủ nghĩa đă cằn cỗi, giữa chồng sách vở được tôn sùng như kinh điển của các ông Marx, ông Lênin, ông Stalin. Nó xác nhận thêm một lần nữa cái sự thực là người cộng sản không thể nào tiến hóa mà vẫn c̣n là cộng sản!

 

3. «ĐỔI MỚI TƯ DUY» HAY «THỬ LÀM THẬT»

 

«Đổi mới tư duy»? Tư duy đúng đắn chỉ có thể được xây dựng trên một nền tảng đúng đắn. Tất cả tư duy chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam được xây dựng trên một sự đồng nhất, khi hiểu ngầm, lúc công khai, nhưng ngụy lư đến trở thành quái gở: Đảng Cộng Sản là giai cấp vô sản, đất nước cũng là giai cấp vô sản, do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam là đất nước. C̣n cái tam đoạn luận xảo trá này một ngày nào, dù chỉ là trong tiềm thức đi nữa, th́ không có một sự đóng góp nào cho đất nước có thể thoát khỏi sự kiểm soát và nhăn hiệu của Đảng, không có một hành động chống Đảng nào lại không bị chụp mũ là «phản quốc». Những người không phải là cộng sản chỉ c̣n có quyền sống bên lề tổ quốc của họ. Một đất nước khoảng sáu mươi triệu người, mà ít nhất là hai phần ba đă phải sống bên lề, th́ đất nước đó sẽ đi về đâu?

 

Tuy là sản phẩm của óc ngụy biện và bệnh ngụy tín, sự đồng nhất quốc gia với đảng phái này vẫn là cơ sở chủ yếu của lư luận vô sản về dân chủ; nó đă cho phép các đảng cộng sản tự hào, từ bao năm nay, về nền «dân chủ thực sự» của họ và phỉ báng cái bị chê chỉ là một thứ «dân chủ h́nh thức» tại các nước tư bản. Ở Việt Nam, nó là cha đẻ của cái thể chế đă được tóm tắt trong một khẩu hiệu ba vế khá kêu là «Đảng lănh đạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ tập thể». Đảng là Đảng, nhà nước cũng là Đảng, nhân dân là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, và thành phần trí thức xă hội chủ nghĩa; trong thực chất, lănh đạo là thống trị, quản lư là nhắm mắt áp dụng mọi chỉ thị của Đảng, làm chủ tập thể là vẫn c̣n có một chỗ đứng nào đó trong xă hội cộng sản tuy đă bị tước mất một số quyền xem là quyền tối thiểu ở các nước khác.

 

Điều có vẻ «mới lạ» là sau hơn nửa thế kỷ ca tụng «dân chủ thực sự» và chửi rủa «dân chủ h́nh thức», bây giờ người ta bỗng khám phá ra rằng nền «dân chủ thực sự» ở Việt Nam đang bị đe dọa trầm trọng bởi... «chủ nghĩa h́nh thức», với hai điều nguy hại là: không những «người ta làm giả (mọi chuyện) chứ không làm thật, mà người ta đă quen với cái giả đến mức xem cái giả là thật» [02]! Và từ nửa năm nay, người ta «THỬ (!) đặt vấn đề dân chủ hóa trong giai đoạn hiện tại» [03]; có người c̣n muốn đối chiếu hai nền dân chủ, để xem... «có thể thừa kế những ǵ của dân chủ tư sản» [04]! Hay chữ và biện chứng quá dễ trở thành lẩn thẩn, người ta quên tuốt là theo lập luận vô sản, «dân chủ thực sự» đă là một sự «trội vượt» đối với «dân chủ tư sản», nghĩa là hắn ĐĂ kế thừa cái cũ, nhưng lại phát huy nó trên một cơ sở khác; lối thoát bây giờ không phải là kế thừa thêm một hay nhiều lần nữa, mà là đặt lại toàn bộ vấn đề giai cấp trong lư thuyết dân chủ. Cuộc tranh luận về dân chủ ở Việt Nam từ mấy tháng nay, thật ra, chẳng có ǵ là đặc biệt mới mẻ; về nội dung, nó cũng già nua như chủ nghĩa cộng sản, cũng xưa cũ như những bài viết cách đây đă mấy mươi năm [05].

 

Dù sao, nếu có thật nhiều thiện chí, người ta cũng có thể phát hiện ra được một số điều đáng chú ư trong thời sự báo chí trong và ngoài nước gần đây. Thứ nhất là cái điệp khúc sẽ «làm thật chứ không làm giả nữa» hay «phải chuyển từ làm kiểng sang làm thật». Thứ hai là cái quyết định chấm dứt vai tṛ của Quốc Hội như là một cơ quan «chỉ để giơ tay và vỗ tay» [06], và nâng cao vai tṛ của nó với tư cách là cơ quan lập pháp và giám sát việc thi hành pháp luật (nếu có!). Thứ ba là cái đề nghị chấm dứt kiếp làm bonzai của Mặt Trận Tổ Quốc hầu biến nó thành một thế lực «đối trọng» [contrepoids] với Đảng [07] (nhưng ngay sau đó là... sự giải thể của hai «h́nh thức đảng» là Đảng Xă Hội và Đảng Dân Chủ trong Mặt Trận, cùng lúc với sự đóng cửa hai cơ quan ngôn luận liên hệ là tờ Tổ Quốc và tờ Dân Chủ, bất ngờ trở thành diễn đàn khá ồn ào của một số đảng viên bất măn!). Thứ tư là sự xuất hiện của khẩu hiệu «tự cởi trói» trong giới báo chí (tiếp theo đó là ... sự bịt miệng báo Văn Nghệ!). Thứ năm là sự thú nhận sau đây của một người trong cuộc: «dân chủ không thể có bằng sự ban ơn mà bằng sự đấu tranh» [08]. Các báo thân hoặc của chánh quyền ở nước ngoài c̣n hứa hẹn với độc giả của họ nhiều màn gay cấn khác...

 

4. KHI CẢNH «VUA LÊ CHÚA TRỊNH» LÀ HỢP HIẾN

 

Bi quan, tôi chỉ sợ là công cuộc «dân chủ hoừcông khai hoá» này chưa thật sự bắt đầu (mới làm thử!) đă (tạm thời?) kết thúc, với những «đổi mới», c̣n trong trứng nước hay đă thành h́nh, vừa ngộ nghĩnh vừa thông thái (đám con ngoại t́nh của ông Thân Canh Tử với bà Vũ Như Cẩn). Trước đây, nhà nước cộng sản Việt Nam là một nhà nước đa đảng giả tạo; bây giờ nó là một nhà nước độc đảng công khai. Cái nhà nước tập quyền này tuy không chấp nhận nguyên tắc phân quyền, nhưng cũng lại không phủ nhận nguyên tắc phân công. Nó ngăn cấm mọi lực lượng đối lập, nhưng cũng «có thể sẽ» (!) cho phép một thế lực «đối trọng» (?) nào đó [09]. Trước đây, khẩu hiệu chính thức là «Đảng lănh đạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ», bây giờ đổi lại thành «Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lư». Quả thật là có tế nhị hơn đối với nhân dân! Trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước th́ h́nh như bây giờ Quốc Hội và lập pháp được đề cao hơn Hội Đồng Bộ Trưởng và hành pháp; Quốc Hội c̣n có quyền «truy tố trước pháp luật những cá nhân và tập thế nào phạm sai lầm nghiêm trọng ĐẾN MỨC (!?) phải xử lư» [10]; các cơ quan đại diện nhân dân không c̣n là cây kiểng nữa mà được yêu cầu lên tiếng, và nhân dân được mời mọc tham gia. Quả là có tôn kính hơn đối với nhân dân!

Điều mà tôi vẫn chưa hiểu nổi là làm thế nào chuyến xe «đổi mới» này có thể chuyển bánh được, nếu không có sự can thiệp của một số phép lạ, nơi một chủ nghĩa và một chế độ vốn phủ nhận mọi phép lạ. Đảng vẫn nằm trên chóp, vẫn lănh đạo, và vẫn… không chịu trách nhiệm trước bất cứ một cơ quan quyền lực nào khác cả. Nhờ phép lạ nào, một chánh đảng nắm quyền tuyệt đối như thế có thể không sử dụng và lạm dụng những đặc quyền đặc lợi của ḿnh? Quốc Hội chỉ là bù nh́n, Mặt Trận chỉ là cây kiểng. Nhờ phép lạ nào, một cơ quan có công tác nhưng không có quyền hành, tự dưng lại có tinh thần trách nhiệm? Nhờ phép lạ nào, chỉ trong một sớm một chiều, người bù nh́n được tạo ra với chức năng đuổi chim cho Đảng có thể trở thành người thực, và cây bonzai đổi kiếp từ vật trang hoàng thành cây ăn trái? «Cần chấm dứt cảnh Vua Lê Chúa Trịnh»! [11]. Nhưng chuyện Chúa Trịnh lộng quyền ngày xưa là một ngoại lệ: đạo Nho không trù liệu việc khuynh loát vua trong tổ chức xă tắc b́nh thường; sự chuyên quyền của Đảng Cộng Sản ngày nay là một thông lệ: nó nằm ngay trong định nghĩa của nền «dân chủ thực sự», có hiến pháp làm bằng. Nhờ phép lạ nào, cái tṛ đảo chánh thường trực mà hợp hiến này, cái cảnh cương thường đảo lộn tân thời này - ông Chúa Đảng ngồi ngất ngưởng trên đầu ngài Chủ Tịch Nước, sẽ tự dưng cáo chung đây?

Lănh vực chính trị thường được phân định bằng một cặp khái niệm căn bản là «công»«tư», với những tác động qua lại của chúng. Cái công là lănh vực của nhà nước, của «xă hội chính trị»; cái tư là khu vực của «xă hội dân sự». Đời sống chính trị trong các nước cộng sản đánh dấu một sự băng hoại của ngay chính ư niệm chính trị. Cái công (nhà nước) trở thành tư (đồ chơi của một chánh đảng) và cái tư (Đảng Cộng Sản) trở thành công (Đảng ngồi xổm trên nhà nước), với khuynh hướng là cái tư đă trở thành công đó sẽ ph́nh tướng ra và dần dần chiếm hữu toàn thể mọi sinh hoạt xă hội, kể cả đời riêng của người công dân; trong loại chế độ toàn trị này, phép nước thua lệ đảng, công quyền kém đảng quyền, tư lư thế công lư, tư luận thành công luận. Người ta muốn hồi sinh cho xă hội dân sự, nhưng tất cả đă trở thành lănh địa của bộ máy Đảng/nhà nước mất rồi, làm quái ǵ c̣n chỗ đứng cho một xă hội dân sự tự lập mà mơ tưởng «phục hồi sức sống» [12] cho nó!

 

5. «ĐỔI MỚI PHONG CÁCH» HAY AI BẠN, AI THÙ?

 

«Đổi mới phong cách»? Tương tự như Janus trong thần thoại La Mă, Đảng Cộng Sản Việt Nam có hai mặt: mặt «dân chủ» đối với «nhân dân», và mặt chuyên chính đối với những «kẻ thù của nhân dân». Tuy hai nhưng thực chất vẫn là một: từ dân chủ giả hiệu sang chuyên chính thực sự (mà có mồm mép biện chứng [13] c̣n cho là «lỏng lẻo»!), chỉ cần thêm một cái dấu bằng! Janus là thần giữ cửa thành phố La Mă ngày xưa, với nhiệm vụ là canh chừng những ai ra vào thành quốc, v́ thế nên một mặt của Janus quay vào trong, mặt kia quay ra ngoài, và hai cặp mắt của Janus chỉ ngưng nghỉ trong thời b́nh. Đảng giống Janus ở chỗ cùng đảm nhận cái chức năng mà trong ngôn ngữ hiện đại ta gọi là công an đó; nhưng Đảng cũng khác Janus ở điểm là Đảng chẳng bao giờ chịu khép những con mắt cú vọ của ḿnh lại, bất kỳ trong t́nh huống nào!

 

Từ 1975 đến nay, suốt mười mấy năm sau chiến tranh (tôi không dám viết là ḥa b́nh!), làm công an tập thể cho nền Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Đảng đă đối xử với toàn thể dân chúng miền Nam như kẻ thù, c̣n khốn nạn hơn cả cách cư xử của mẫu quốc với dân thuộc địa trước đây. Bởi v́, chỉ với điều kiện là xem những người mà Đảng cai trị như kẻ thù, Đảng mới có thể dùng những biện pháp chính trị như Đảng đă sử dụng (gạt gẫm đổi tiền, lừa bịp cải tạo, thanh toán các thành phần «phi xă hội chủ nghĩa», cưỡng bách thị dân đi kinh tế mới, cưỡng bách nông dân vào hợp tác xă hay nông trường, tổ chức vượt biên giả để lấy vàng, bắn giết người đi chui)... Tuy nhiều thủ đoạn, nhưng cái tác phong của toàn Đảng tựu trung vẫn là dựa vào gian trá và bạo lực, hai phương tiện cố hữu của chính trường - hai bộ mặt thực của Đảng - để áp đặt vào miền Nam chế độ cộng sản, với cái kết quả không thể tránh được là sự ly dị hoàn toàn giữa Đảng với nhân dân. Một đất nước mà, khi chính quyền khẳng định một đàng, dân chúng đem suy diễn một nẻo, th́ đất nước ấy sẽ đi về đâu?

 

Đảng đặt vấn đề «đổi mới phong cách» là điều chí lư; chỉ sợ là bây giờ đă quá muộn. Dù sao, nếu đă đặt vấn đề, xin hăy có đủ can đảm và liêm sỉ để đặt ngay từ cấp lănh đạo. Nhà dột th́ dột từ trên nóc dột xuống! Những chính sách, chủ trương đơn phương của Đảng - như mù quáng tiến lên chủ nghĩa xă hội không dựa vào lực lượng tư sản dân tộc, cưỡng bách phân phối lại sức lao động trên cả nước, tập thể hóa cấp tốc nông nghiệp, cải tạo xă hội chủ nghĩa gấp rút, thanh trừng thẳng tay «ngụy quân ngụy quyền» và «phản loạn», v. v... - không xuất phát từ cán bộ trung hay hạ cấp mà từ cấp lănh đạo. Chúng đều mang nặng tính chất phiêu lưu, và xem dân chúng chỉ như con vật thí nghiệm; nếu lănh đạo đă không khinh dân như cỏ rác, đời nào cán bộ lại dám hà hiếp dân? Lẩn trốn trách nhiệm thế nào được!

 

Trong thành phần cán bộ, đảng viên, hiển nhiên là có những phần tử bất hảo, như trong bất cứ một tổ chức nào khác, ngay cả tôn giáo. Nhưng giữa những chánh sách, chủ trương của Đảng và tác phong của chúng, có một quan hệ nhân quả, một quan hệ nhân duyên sinh khó chối căi. Đă trọng «hồng» hơn «chuyên», th́ đừng than trách cán bộ dốt nát. Đă chủ trương vô sản hóa nhân dân, đừng ngạc nhiên khi đảng viên trở thành tham nhũng v́ nghèo đói. Không có chính sách công an trị, th́ thành phần công an không đông đảo và có nhiều quyền lực như hiện nay, với những vũ khí độc địa như học tập cải tạo, khai báo lư lịch, đăng kư hộ khẩu. Không có chủ trương thanh trừng đối lập chính trị và kinh tế, công an đă không có lư do ǵ bắt giữ người để làm bậy. Không có chính sách hợp tác hóa cấp tốc nông nghiệp, th́ không có hiện tượng cường hào tịch thu ruộng đất của nông dân. Không có chủ trương di dân gấp rút, đă không có chuyện lùa người đi kinh tế mới để cướp đoạt nhà cửa. Làm ǵ có sự đứt đoạn giữa đường lối «đúng đắn» của Đảng với tác phong «sai trái» của đảng viên!

Lănh vực chính trị c̣n thường được phân định bằng một cặp khái niệm căn bản khác là «bạn»«thù»; ở đây, người ta phát hiện ra một sự băng hoại khác của ư niệm và đời sống chính trị trong các nước cộng sản. B́nh thường, khái niệm «kẻ thù» phải được hiểu theo nghĩa tương đối là «địch thủ», tức là những cá nhân hay tập thể cùng có với nhau một số mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này có thể thuộc nhiều loại h́nh khác nhau, có thể rất trầm trọng, nhưng đều có thể giải quyết được và biến mất; «địch thủ», do đó, cũng có lúc trở thành «đồng minh», trong một tập hợp mới. Đối với đảng cộng sản, nhất là khi nó đă nắm chính quyền, khái niệm «kẻ thù» phải được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, bởi v́ «nhiệm vụ lịch sử» của chuyên chính vô sản không phải là đi t́m một thỏa ước giữa các thế lực đối kháng, mà chính là để tiêu diệt toàn bộ các giai cấp đối lập, và san bằng mọi tàn tích hay mầm mống phân chia giai cấp, nhằm mở đường cho một xă hội chỉ c̣n có những người vô sản.

 

6. «ĐỔI MỚI SÂU SẮC VÀ TOÀN DIỆN»  HAY KIẾN B̉ MIỆNG CHÉN?

 

«Đổi mới sâu sắc và toàn diện»? Không có ǵ sâu sắc và toàn diện cho bằng cái thế giới quan của một cá nhân hay một tập thể. Thế giới quan của các đảng cộng sản là «đấu tranh giai cấp» theo quan điểm vô sản. Mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp là một dữ kiện lịch sử: «lịch sử loài người cho đến bây giờ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp» (Karl Marx); nhưng từ sự kiện không ai có thể phủ nhận này, vẫn mở ra hai đường hướng giải quyết: con đường dân tộc và con đường quốc tế vô sản. Nhảy từ đường lối dân tộc sang đường lối quốc tế, hay ngược lại, là thực hiện một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện đúng nghĩa: đây là cái khâu quy định tất cả mọi khâu khác.

 

Chọn con đường dân tộc là t́m cách giải quyết những đối kháng nội bộ giữa các giai cấp trong khuôn khổ của cộng đồng quốc gia; những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các tầng lớp xă hội phải được dàn xếp thế nào để không tổn hại đến sự ḥa hợp dân tộc. Trong các nước theo giải pháp này, người ta thấy xuất hiện những chánh quyền tả khuynh hoặc hữu khuynh, dựa vào giai cấp này hay giai cấp kia để cai trị, nhưng chung quy, cộng đồng dân tộc vẫn c̣n tồn tại. Ngược lại, chọn con đường quốc tế là t́m cách giải quyết những đối kháng giữa các giai cấp trên quy mô toàn thế giới; sự đoàn kết giữa các đảng cộng sản, dù khác quốc tịch, vẫn quan trọng hơn sự ḥa thuận giữa các giai cấp đối nghịch, tuy cùng một quốc gia. Kết quả là cộng đồng dân tộc hoặc sẽ teo nhỏ lại, hoặc sẽ nổ tung, như ở Việt Nam, thành muôn ngàn thuyền vượt biển!

 

Lănh vực chính trị vẫn được định nghĩa bằng cặp khái niệm căn bản «chỉ huy»«tuân lệnh»; tác động qua lại của hai khái niệm này quy định nội dung của một «trật tự chính trị». Trong các nước cộng sản, đây là một trật tự hết sức kỳ quặc. Chánh đảng nắm quyền lănh đạo không nhằm phục vụ lợi ích công cộng (hiểu như lợi ích chung của tất cả mọi thành phần dân tộc đă hợp lại thành một tập thể chính trị) mà lợi ích của giai cấp công nhân thế giới, không nhằm phục vụ quyền lợi của mọi tầng lớp xă hội mà của riêng một giai cấp được xem là «tiên tiến» nhất. Trong nước, Đảng đă không chủ trương phát triển đồng thuận mà c̣n kích động sự xung khắc giữa các thành phần dân tộc, không chủ trương phồn thịnh hóa mà vô sản hóa mọi tầng lớp nhân dân. Đối với bên ngoài, Đảng không nhằm bảo vệ mà đôi khi c̣n sẵn sàng hy sinh cả an ninh quốc gia cho một số nước được xem không những là đồng minh mà c̣n là «anh em». Một trật tự như thế, dù được xây dựng trên một hệ thống pháp lư đi nữa, cũng không thể nào được xem là chánh đáng, theo nghĩa là được sự chấp thuận của quốc dân; nó chỉ có thể là một trật tự do bạo lực áp đặt, và do đó, không có cơ sở đạo lư để bắt buộc mọi người phải tuân theo, mà ngược lại, biện minh trước cho mọi hành động chống đối - vũ trang hay bất bạo động - của quần chúng.

 

Đảng Cộng Sản Ư đă thực hiện được một sự thay đổi toàn diện và sâu sắc, khi nó từ bỏ «đấu tranh giai cấp» như một thứ chủ nghĩa, và cái kết quả tất yếu của nó là «chuyên chính vô sản». Đảng tiếp tục đấu tranh v́ quyền lợi của giai cấp công nhân Ư, và vẫn đoàn kết với giai cấp công nhân ở mọi nước, nhưng từ chối hy sinh quyền lợi tối cao của quốc gia và nhân dân Ư cho quốc tế vô sản; trở thành một đảng cộng sản dân tộc, Đảng sẵn sàng nắm chánh quyền trong một liên minh với các đảng phái tư sản [14]. Đảng Cộng Sản Việt Nam, trái hẳn lại, chủ trương phải nắm chánh quyền song song với sự triệt hạ mọi lực lượng đối lập. Nếu «quyền hành làm hư hỏng, và quyền hành tuyệt đối làm hư hỏng một cách tuyệt đối», khó ḷng trông mong có một sự thay đổi sâu rộng như thế ở Việt Nam.

 

Mặt khác, nếu không bắt đầu bằng sự từ bỏ hẳn cái thế giới quan «đấu tranh giai cấp» đă biến thành chủ nghĩa, và do đó, từ bỏ hẳn chế độ «chuyên chính vô sản» và những tệ đoan đi kèm, Đảng không thể nào đổi mới thực sự, mà sẽ chỉ vận động loay hoay như một con kiến ḅ quanh miệng chén, có ḅ suốt đời cũng không ra khỏi mê cung của một thứ chủ nghĩa không tưởng đội lốt khoa học đă đến hồi suy tàn. Trong khi các nước tân tiến trên thế giới đă hoặc đang bước vào một thứ «xă hội hậu công nghiệp» gọi là «xă hội thông tin», một xă hội không có cả trong tầm nh́n của Karl Marx ở thế kỷ thứ 19, Đảng vẫn c̣n quằn quại trong «thời kỳ quá độ», ḥng có ngày khập khiễng lết qua được ngưỡng cửa của xă hội công nghiệp, c̣n tiếp tục được xem là đỉnh phát triển cao nhất của xă hội loài người!

 

7. CON CHÓ VÀ CÁI ĐUÔI CHÓ

 

Vấn đề là Đảng Cộng Sản Việt Nam có thực ḷng muốn đổi mới hay không? Thật ra, câu hỏi này chỉ đáng được nêu lên nếu không có phong trào «perestroika»«glasnost» ở Liên Xô! Trái với những huyền thoại mà Đảng vẫn t́m đủ mọi cách để phổ biến, Đảng Cộng Sản Việt Nam là một chánh đảng rất lệ thuộc vào phong trào quốc tế vô sản, đặc biệt vào Liên Xô và Trung Cộng, phụ thuộc từ lư thuyết và đường lối đến súng đạn và lương thực. Đặt những vấn đề «đổi mới», «cởi trói» ra trong lúc này chỉ tổ làm lộ thêm sự lệ thuộc của Đảng, chỉ làm đau ḷng thêm, tủi nhục thêm cho thân nhân của bao nhiêu người đă bỏ mạng ngoài khơi nhưng vẫn không làm Đảng mảy may thay đổi, hay đă vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc đấu tranh giành độc lập dưới ngọn cờ của Đảng.

 

Về mặt lư thuyết và đường lối, Đảng không có một đóng góp nào đáng kể cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế; tất cả những cống hiến của Đảng cho chủ nghĩa này chỉ vỏn vẹn tóm thâu vào một khẩu hiệu không có cả thực chất: «vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào t́nh h́nh cụ thể của Việt Nam». «Sáng tạo» đến cái mức mà trong thời kỳ c̣n ôm chân Mao trước đây, khi Đảng Cộng Sản Trung Hoa chủ trương đấu tố th́ Đảng ta cũng đấu tố, khi Đảng đàn anh phát động phong trào «chỉnh đốn» th́ Đảng ta cũng «chỉnh đốn»! Chới với v́ các phương pháp «động» của chủ nghĩa Mao, Đảng quay lại ôm cái mồ ma của Stalin, thoát được tṛ «nhảy vọt» với tṛ «cách mạng văn hóa», nhưng lại rơi vào chủ nghĩa Stalin, đặt trên những nguyên tắc «tĩnh» không thể nào trái ngược hơn với tư duy sáng tạo: tuyệt đối trung thành với tổ quốc xô viết đầu tiên, tuyệt đối vâng lệnh cấp lănh đạo, tuyệt đối tin tưởng nơi sách vở kinh điển, tuyệt đối tránh suy nghĩ và bàn căi! Kết quả trông thấy là cái tŕnh độ lư luận của Đảng ngày nay: dù thực ḷng muốn đổi mới đi nữa, chỉ sợ là Đảng cũng không có đủ bản lănh trí thức để thoát khỏi chủ nghĩa giáo điều!

 

Sự kiện là phong trào «đổi mới» xuất hiện lúc này đây, ngay sau khi Liên Xô phát động đổi mới, c̣n tố cáo một sự lệ thuộc khác của Đảng về vật chất. «Tiến lên chủ nghĩa xă hội không đi qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa» (tội nghiệp cho các «quy luật lịch sử»!) chỉ có thể có nghĩa là trong «thời kỳ quá độ», Đảng trông cậy vào viện trợ của Liên Xô để sống c̣n, trong khi đàn anh cũng bắt đầu kiệt quệ v́ cái gia tài của quá khứ, v́ chạy đua vũ trang với chạy đua không gian, v́ cuộc chiến tranh ở Afghanistan, v́... viện trợ cho đàn em. Đi ngủ th́ nằm mộng thấy Lênin lại cảnh cáo, lúc tỉnh dậy lại phải nghe Gorbatchev hăm he, Trung Ương Đảng có to gan lớn mật đến đâu cũng không dám chủ trương «vẫn như cũ», khi ngay chính Liên Xô cũng bắt buộc phải lao vào con đường đổi mới.

 

T́nh thế của Đảng đối với Liên Xô cũng giống như hoàn cảnh của chánh quyền Thiệu đối với Hoa Kỳ trước đây. Khi Mỹ đă muốn thương thuyết để rút quân ra khỏi Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu, dù không muốn đàm phán, cũng phải đến Paris và cuối cùng phải hạ bút kư hiệp định. Báo chí cộng sản thời ấy đă ví chánh quyền Thiệu với cái đuôi chó: Nixon đă vẫy đuôi th́ nhất định là cái đuôi Thiệu phải vẫy theo, không có cách nào khác. Câu chuyện đổi mới gượng gạo, kiểu kiến ḅ quanh miệng chén ngày nay, ít nhất cũng có một cái hay: nó nhắc nhở chúng ta rằng loài chó tuy có nhiều chi, giống, nhưng v́ sự vận động của cơ thể chó đều như nhau, nên rốt cuộc rồi, cái đuôi chó nào cũng giống cái đuôi chó nào!

 

8. CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH

 

Đổi mới thực sự chỉ có thể đến từ quần chúng đấu tranh, đánh sâu vào và khoét rộng ra những kẽ hở mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đă bị bắt buộc phải phơi bầy trước công luận để, từng bước một, đẩy Đảng lui về cương vị của một chánh đảng b́nh thường, trước khi tan biến vào đêm đen của hậu trường lịch sử. Hào quang của cuộc «kháng chiến thần thánh» chống đế quốc Mỹ chỉ là một thành tích nước đôi: nếu Đảng là người đă chiến thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng đồng thời cũng là kẻ đă gây ra cảnh huynh đệ tương tàn, biến can thiệp Mỹ thành tham chiến, suưt đưa dân tộc đến hố diệt vong; lịch sử và các thế hệ sau sẽ luận định về công / tội của Đảng, đối với đất nước và đối với gia đ́nh của hơn hai triệu người đă chết trong chiến tranh. Với nạn đói hiện c̣n đang hoành hành, hào quang của cuộc kháng chiến chống Pháp - hào quang thật sự, xứng đáng, độc nhất, và cuối cùng của Đảng - cũng đă rơi mất, Đảng hiện nguyên h́nh là một tổ chức mafia chính trị công khai. V́ lẽ sống c̣n, Đảng hiện đang bị bắt buộc phải chơi với lửa, chịu đựng công luận phê phán, nông dân biểu t́nh, v.v...; Đảng rất có thể sẽ thiêu thân, như đă từng bị phỏng nặng trong trận Trăm Hoa trước đây. Dù sao, Đảng cũng không c̣n chút danh chánh ngôn thuận nào nữa để tiếp tục bám víu lấy chánh quyền.

 

«Chế độ chính trị nào là thể chế tốt đẹp nhất?» , có người đă đặt câu hỏi đó cho Solon và triết gia này đă trả lời bằng một câu hỏi khác: «Cho nước nào và ở vào thời điểm nào?» . Một trong bảy hiền sĩ của cổ Hy Lạp, Solon (640 - 558 trước Tây lịch) là người đă đặt những viên đá đầu tiên cho nền dân chủ của thành quốc Athènes, bằng một cuộc cải cách xă hội và chính trị, một sự đổi mới thật sự và sâu rộng. Cho Việt Nam và trước ngưỡng cửa của thế kỷ thứ 21, thể chế nào sẽ là chế độ thích hợp nhất? Có lẽ vẫn chưa ai trong chúng ta thực t́nh có khả năng h́nh dung được tường tận bộ mặt của tương lai đất nước; điều dứt khoát là đó sẽ không phải là một thể chế đă được dân chúng miền Nam tặng cho cái danh xưng xứng đáng là «Xấu Hơn Cả Ngụy» ngày nay, không thể là chế độ cộng sản. Nếu quả thật là Đảng có những «nhiệm vụ lịch sử», th́ cái nhiệm vụ cuối cùng của Đảng chính là sự xác lập chân lư này, bằng tất cả những thành tựu của Đảng trong mọi lĩnh vực từ 1975 đến nay. Đảng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc!

 

 

PHAN CÔNG LUẬN

 Thông Luận, số 16, tháng 05, 1989

 

 



[01] Nguyễn Văn Linh. Đổi Mới Tư Duy và Phong Cách. Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1987. Tr. 15 & 17.

[02] Lư Chánh Trung. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 44.

[03] Đề tài của một cuộc hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 42-50.

[04] Lư Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp.

[05] Nếu chỉ giới hạn vào Việt Nam từ khi bị chia đôi, có thể đọc lại toàn bộ những bài viết trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm (1956), ít ra là các bài của Trần Đức Thảo (Nội Dung Xă Hội và H́nh Thức Tự Do, và Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ), và Nguyễn Mạnh Tường (Qua Những Sai Lầm Trong Cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lănh Đạo), đăng lại trong Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc, tr. 288-315.

[06] Phạm Văn Kiết. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 46.

[07] Lư Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp.

[08] Nguyễn Hữu Thọ. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 48.

[09] Sau Kết Luận của Bộ Chính Trị về Một Số Vấn Đề Trước Mắt trong Công Tác Tư Tưởng (Nhân Dân, 09-12-1988), và bài hiệu đính gọi là Lược Ghi những ư kiến của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh về báo chí (Nhân Dân, 14-02-1989), Hội Nghị lần thứ 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (20 đến 29-03-1989) đă chính thức bác bỏ mọi đề nghị về «đối trọng», «đa nguyên», đă được phát biểu trên báo chí và trong các buổi hội thảo về «đổi mới».

[10] Nguyễn Văn Linh. Đổi Mới Sâu Sắc và Toàn Diện trên Mọi Lĩnh Vực Hoạt Động. Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1987. Tr 25.

[11] Lư Chánh Trung. Phát biểu tại Đại Hội MTTQVN-TPHCM, 23-24/09/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 44.

[12] Lư Chánh Trung. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Đoàn Kết, số 407, tháng 11-1988. Tr. 43 và các trang tiếp.

[13] Nguyễn Khắc Viện. Tham luận trong buổi hội thảo do MTTQVN-TPHCM tổ chức ở Saigon, 11/06/1988. Đoàn Kết, số 408, tháng 12-1988. Tr. 36-39.

[14] Đảng Cộng Sản Ư c̣n là một đảng đối lập ở Tây Âu. Nhưng những biến cố mới đây tại nhiều nước Đông Âu cho phép chúng ta nghĩ rằng đó cũng có thể sẽ là xu hướng thay đổi ở một số đảng cộng sản đang cầm quyền trong vùng này.