Đưa lên mạng ngày 15-09-2018

C2

Xă hội (Khái niệm)

Auguste Comte – Tác phẩm

 

XĂ HỘI

KHÔNG PHÂN TÁN

THÀNH NHỮNG CÁ NHÂN

(1851)

Tác giả: Auguste Comte

Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Theo truyền thống học thuật, Auguste Comte là cha đẻ của khoa xă hội học, v́ ông là người đă đặt ra từ «sociologie» để chỉ môn học này (mà trước năm 1839 ông c̣n gọi là «physique sociale» = vật lư học xă hội), đồng thời là một trong những lư thuyết gia đầu tiên của nó.  

Thật ra, người đầu tiên đă sử dụng từ sociologie (trong một trước tác không công bố, khoảng thập niên 1780[1]), là Emmanuel-Joseph Sieyès (1748-1836)*, một trong những nhân vật mấu chốt của cuộc Cách mạng 1789 ở Pháp. Mặt khác, nếu giới hạn xă hội học vào phần lư thuyết, h́nh thức tồn tại ưu thắng của nó trong thế kỷ thứ XIX, th́ xă hội học đương thời thực chất chỉ là triết lư xă hội, một loại h́nh triết học có thể đă khởi nguồn từ Hy Lạp cổ đại[2].

Nhưng hăy để vấn đề này lại cho giới sử gia khoa học, và tập trung trên trích đoạn dịch dưới đây. Nó cho ta thấy một số đặc trưng của xă hội học lư thuyết kiểu Auguste Comte.

Về đối tượng, đây là một thứ xă hội học vĩ mô (macro-sociologie) đặt nền trên quan điểm «toàn thể luận» (holism = holisme, do từ holos = toàn thể). Nhưng cái toàn thể cao nhất ở Comte không phải là xă hội mà là nhân loại, đối tượng tôn thờ của tác giả[3]. Mặt khác, trong hệ thống vĩ mô của Comte, viên gạch xây nên xă hộigia đ́nh, nghĩa là một tập thể chứ không phải là những cá nhân. Như vậy, quan điểm tổng quát của Comte hoàn toàn đối lập với một trào lưu xă hội học khác, gọi theo một thuật từ xuất phát từ nhà kinh tế người Áo Joseph A. Schumpeter (1883-1950), sau được các tác giả lớn như Max Weber (1864-1920) và Karl R. Popper (1902-1994) phổ biến, là «cá nhân luận phương pháp = methodological individualism», và thời nay được khá nhiều nhà xă hội học vận dụng. Nội dung của nó là xử lư mọi vấn đề xă hội như kết quả, có thể là cố ư hoặc không chủ tâm, của những cá nhân hành động từ loại lư do riêng của mỗi người[4].

Về phương pháp, chịu ảnh hưởng của các khoa học «cứng», Comte nghĩ có thể tách xă hội học thành hai phần, «xă hội học tĩnh [trạng] (sociologie statique)», phần xă hội học nghiên cứu xă hội theo h́nh thái của nó, trong trạng thái tĩnh) và «xă hội học động [trạng] (sociologie dynamique)», phần xă hội học nghiên cứu xă hội trong trạng thái động, trong ḍng lịch sử). Như vậy, nhân loại là thứ xă hội lớn với một lịch sử lũy tích mà mọi xă hội quốc gia là thành phần, và xă hội ở mọi cấp đều tiến hóa từ những h́nh thái xă hội này sang các h́nh thái xă hội khác vững chắc hơn, xuyên qua một số thời kỳ phân ră tương đối.  

Nguyễn Văn Khoa

*

Sự phân tán nhân loại[5] thành các cá nhân theo nghĩa đen chỉ là một lối phân tích không có nguyên tắc[6], vừa trái với lư trí[7] vừa vô luân[8], bởi v́ nó có xu hướng giải cấu, thay v́ giải thích, tồn tại xă hội – nghĩa là nó chỉ có thể được đem ra áp dụng khi sự liên đới xă hội không c̣n nữa. Trong xă hội học, nó cũng sai lầm như, trong sinh học, sự phân tán hóa học một cá nhân thành những phân tử hoàn toàn biệt lập, bởi v́ một sự tách rời như thế không bao giờ có thể xảy ra trong môi trường của sự sống. Sự thật là, khi trạng thái xă hội bị thay đổi sâu sắc, sự tan ră sẽ thâm nhập đến một mức độ nhất định vào tận tổ chức gia đ́nh, như chúng ta đă thấy quá nhiều ngày nay[9]. Tuy nhiên, mặc dù đây là triệu chứng hỗn loạn nghiêm trọng nhất trong tất cả, chúng ta đều có thể nhận thấy, một mặt, cái thiên hướng phổ quát nhằm tự duy tŕ đến mức có thể được của những quan hệ gia đ́nh trước kia, và mặt khác, cái xu hướng bộc phát nhằm xây dựng những gia đ́nh mới, đồng nhất và ổn định hơn[10]. Như vậy, chính các trường hợp bệnh hoạn này đă xác nhận định đề[11] sơ đẳng của xă hội học tĩnh trạng: gia đ́nh chứ không phải cá nhân mới là những thành tố cơ bản của xă hội loài người4. Theo một nguyên lư triết học mà tác phẩm nền tảng của chúng tôi đă đặt ra từ một thời gian rồi, th́ bất kỳ một hệ thống nào cũng chỉ có thể được h́nh thành từ những yếu tố giống như bản thân nó, chỉ ít phức tạp hơn mà thôi. Như vậy, ta không thể nào phân tán một xă hội thành những cá nhân, giống như trong h́nh học, ta không thể nào phân tán một mặt phẳng thành những đường thẳng, và đường thẳng thành những điểm[12]. Cái xă hội ít phức tạp hơn, cụ thể là gia đ́nh, dù đôi khi quy mô chỉ là đôi vợ chồng cơ sở, do đó, mới là yếu tố xă hội học thực sự. Từ đấy, sẽ xuất hiện sau đó những nhóm phức hợp hơn, dưới danh nghĩa các giai cấp, thành phố, và đối với Hữu thể Lớn [Nhân loại], trở thành những thành tố tương đương với các mô và cơ quan sinh học, như tôi sẽ giải thích [ở phần sau].

Auguste Comte,

Système de politique positive

(Hệ Thống Chính Trị Thực Chứng),

1851-1854, q. II, ch. III.

 

 



[1] Xem: Jacques Guilhaumou, Sieyès et le non-dit de la sociologie: du mot à la chose, Revue d’Histoire des Sciences humaines, 2006, 15, tr. 117-134. Có thể đọc trên, hoặc tải về từ, Internet.

[2] Xem: Charles A. Ellwood, Aristotle As A Sociologist, Annals of the American Academy of Political Science, vol. 19, 1902. Có thể đọc trên, hoặc tải về từ, Internet. Sẽ được dịch và đăng trên trang mục này.

[3] Nhân loại là Hữu thể Lớn hay Hữu thể Vĩ đại, theo cách gọi của Comte. Vào cuối đời, Comte c̣n là người sáng lập, đồng thời là giáo chủ của một tôn giáo mới, gọi là Nhân Loại Giáo hay Tôn Giáo Nhân Loại hay Thực chứng Giáo. Đối tượng tôn thờ của nó là Nhân loại, được định nghĩa như «toàn bộ tập hợp người trong quá khứ, hiện tại và tương lai»; đây là một h́nh thức sùng bái người chết (culte des morts) mà theo ông vẫn tiếp tục «lèo lái người sống», được đặt nền trên 3 khái niệm: tha nhân (autrui, Comte được cho là cha đẻ của từ altruisme = chủ nghĩa tha nhân), trật tự, tiến bộ. Dù là một thứ tôn giáo thế tục, Nhân Loại Giáo cũng có nhà thờ, tổ chức và chức sắc giáo hội, lịch tôn giáo với những ngày lễ (ngày sinh hay ngày giỗ của các vĩ nhân) và tham vọng toàn cầu hóa như mọi tôn giáo hữu thần khác.

[4] Cá nhân luận phương pháp… «là học thuyết theo đó chúng ta phải cố gắng t́m hiểu mọi hiện tượng tập thể như đều do loại hành động, tương tác, cứu cánh, hy vọng, và tư tưởng của những cá nhân, và các truyền thống được những cá nhân tạo ra và duy tŕ = the doctrine that we must try to understand all collective phenomena as due to the actions, interactions, hopes and thoughts of individual men, and as due to traditions created and preserved by individual mens» (Karl R. Popper, The Poverty Of Historicism, 1944-1945 (London, Routledge & Kegan Paul, 1963, tr. 157-158).

[5] Xem phần giới thiệu trích đoạn ở trên.

[6]  Trong nguyên bản: anarchique. Anarchie (HL: anarkhia), chỉ h́nh thức chính trị vô chính phủ, nghĩa là sự biến mất của nhà nước, và sự xây dựng mọi quan hệ xă hội trên những cá nhân. Comte không thực sự biết h́nh thức chính trị này vào thời đại của ông, nhưng ông xem quan điểm cá nhân chủ nghĩa là anarchique, bởi v́ nó cho rằng cá nhân là một thực thể, hơn nữa, một thực thể cao hơn cả xă hội lẫn nhà nước. theo Comte, đấy là đầu mối của mọi hỗn loạn. Tất nhiên, ở phía đối lập, người ta có thể phản bác: nếu anarchisme chỉ sự tách rời cá nhân khỏi xă hội, th́ tại sao không xem nó như một nhân tố giải phóng cá nhân khỏi sự giám hộ của xă hội? Ở đây, chúng tôi chọn dịch analyse anarchique là một sự phân tích không có nguyên tắc hay phương pháp chỉ đạo, nghĩa là bừa băi.

[7]  Nếu cá nhân chỉ thực sự tồn tại khi xă hội tan ră (như trong quan điểm của Comte), th́ việc sử dụng cái chỉ tồn tại sau xă hội để giải thích sự h́nh thành và phát triển của xă hội là điều trái với lư trí, là cực kỳ vô lư. Ngược lại, nó hoàn toàn có thể được dùng để giải thích sự giải cấu hay giải thể của xă hội.

[8]  Nếu quan hệ xă hội được suy ra từ cá nhân thay v́ cái toàn thể (xă hội, thậm chí, nhân loại), th́ không thể ngăn cản cá nhân hành động v́ quyền lợi riêng của ḿnh, trong khi sống đạo lư là hành động v́ con người và loài người nói chung, v́ lợi ích chung chứ không phải v́ quyền lợi cá nhân. Nói cách khác, nền tảng của luân lư đạo đức, theo Comte, là tư tưởng cho rằng chỉ nhân loại mới là cái toàn thể. 

[9] Ở đây, Comte không chỉ công nhận sự phân ră của xă hội như một khả năng lư thuyết, một sai lầm do chủ nghĩa cá nhân gây ra, mà c̣n như hiện thực, v́ là một sự kiện lịch sử đang diễn ra «ngày nay».

[10]  Tuy nhiên, Comte đối lập nhận định về chủ nghĩa cá nhân như sự kiện, với một nhận định kép về sự ưu việt của sự kiện xă hội trên sự kiện cá nhân, đó là: những nỗ lực nhằm duy tŕ quan hệ gia đ́nh như một khuynh hướng phổ biến, và sự thiết lập những «gia đ́nh mới» (với hàm nghĩa là «mới» về h́nh thức), «thuần nhất» hơn (có những thành viên gần gũi nhau hơn), «ổn định» hơn (ít có khuynh hướng tan vỡ hơn), trong hoàn cảnh phân ră của xă hội. Điều này nói lên rằng sự phân ră của xă hội không bao giờ là tuyệt đối, nghĩa là cá nhân chưa bao giờ từng phải hoàn toàn đơn độc đối mặt với xă hội hết cả. 

[11] Đặt gia đ́nh chứ không phải cá nhân như thành tố cơ bản của xă hội loài người làm định đề, Comte muốn nói rằng đây là một nguyên lư nền tảng, có giá trị triết lư liên quan đến tri thức khoa học. Theo Comte, định đề này c̣n dựa trên một nguyên lư khoa học tổng quát hơn nữa là, dù trong hệ thống nào, các yếu tố của hệ thống phải có cùng bản chất với bản thân hệ thống: một mặt phẳng chỉ có thể được phân tích thành những mặt phẳng nhỏ hơn, chứ không phải thành những đường thẳng; cũng vậy, một xă hội chỉ có thể được phân tích thành những xă hội nhỏ hơn, chứ không phải thành những cá nhân.  

[12] Tuy nhiên, định đề và lập luận của Comte ở trên mang tính chất siêu h́nh hơn là phương pháp. Trong sinh học và toán học, sự giải thích bằng một yếu tố khác với hệ thống không dẫn đến cùng một kết quả như trong xă hội học của Comte: giải thích sự sống bằng tế bào hay đường thẳng bằng những điểm không thay đổi ǵ về hiện thực của sự sống hay của đường thẳng cả. Ngược lại, nếu có thể giải thích xă hội bằng cá nhân, th́ cá nhân sẽ có một hiện thực vượt lên trên cả xă hội, và có thể đ̣i hỏi mọi quyền năng và quyền lợi (điều mà Comte cho là «vô luân», nếu không phải là bệnh hoạn hay tội lỗi, nhưng là hiện thực xă hội tại mọi quốc gia xây dựng trên quyền con người và quyền công dân hiện nay). Thật ra, người ta vẫn có thể khởi đi từ xă hội như tập hợp xă hội đầu tiên mà không chối bỏ sự độc lập thực sự của cá nhân, nghĩa là khác với Comte, chỉ chủ trương một thứ «toàn thể luận phương pháp (methodological holism)» mà thôi. Rốt cuộc, câu hỏi là Comte đă bác bỏ ư niệm cá nhân như nguyên lư giải thích trong xă hội học v́ lư do chính trị và đạo đức, hay v́ lư do khoa học? Có vẻ như, v́ Comte là người đồng thời và đồng hành với phản ứng chống lại chủ nghĩa cá nhân tự do theo sau cuộc cách mạng 1789, thứ toàn thể luận của ông bao hàm một quan niệm về những cứu cánh chính trị và đạo đức dành ưu tiên cho nhân loại trên các xă hội thành viên, và cho xă hội trên những cá nhân – nghĩa là thực ra nó nhân danh chính trị hơn là khoa học.