Ngẫu nhiên (Khái niệm)

C2

Nguyên nhân, Lý do, Ngẫu nhiên 1

Tác giả: Antoine-Augustin Cournot*

Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Các triết gia đă bàn luận rộng răi về ư tưởng nguyên nhân, nhưng hầu hết đều chỉ quan tâm tới ư tưởng lư do của sự vật một cách hời hợt, như thể nhân dịp bàn thêm mà thôi, mặc dù chính ư tưởng lư do mới là tổng quát hơn, và thực sự là cái ư tưởng điều tiết mà ta phải lấy làm chuẩn mực cho cả ư tưởng nguyên nhân nữa, nếu muốn xác định phạm vi và quy định giá trị của nó[1]. [...] Thử xem xét những sự kiện trong tŕnh tự vật lư, nơi cả hai ư tưởng này đều hiện rơ, nhưng trong sự tương phản rơ rệt. 

Khi chơi tṛ sấp ngửa, cứ mỗi lượt ta ném đồng tiền ra, chắn chắn đều có sự can thiệp của các nguyên nhân vật lư nguyên nhân theo đúng nghĩa của từ này như cái lực được dùng để ném đồng tiền xuống (với độ mạnh và hướng lăn khác nhau một cách hoàn toàn bất đồng ở mỗi lần ném), sức lay động và ma xát cũng không đều như vậy của không khí bao quanh, và cuối cùng là lực hấp dẫn mà định hướng cũng như cường độ là không đổi. Chính những lực này đă kết hợp khác nhau, để làm cho khi mặt sấp, lúc mặt ngửa xuất hiện, mà chúng ta những người biết tính toán sự vận hành của các thiên thể – cũng không thể nào tính trước được kết quả. Vả lại, chính v́ không nhận thấy một bất thường quan trọng nào về cấu trúc trên mặt chạm rất ít lồi lơm của đồng tiền, chúng ta mới tin rằng không có lư do ǵ để chờ đợi mặt này xuất hiện nhiều hơn mặt kia, nên đă lấy đồng tiền làm một công cụ để chơi hay đánh cược. Tuy nhiên, phán đoán bốc đồng này có thể sai, và chúng ta sẽ được cảnh báo ngay bởi sự xuất hiện thường xuyên đáng kể hơn của một trong hai mặt, sau một lượng lớn các lần ném. Lúc đó, chúng ta sẽ t́m hiểu, và có thể sẽ nh́n thấy lư do của sự xuất hiện thường xuyên hơn này trong một bất thường nào đó về cấu trúc của đồng tiền, trên mặt chạm, trong sự không đồng nhất của thứ kim loại sử dụng. Nhưng các lư do này, tất cả đều liên quan tới nguyên tắc quán tính của vật chất, đều không phải là những lực, cũng không phải là các nguyên nhân đúng nghĩa.

Trong tŕnh tự các hiện tượng sống, sự ăn khớp giữa cấu trúc hữu cơ và những chức năng của cơ quan, giữa cứu cánh và phương tiện khiến chúng ta phải giật ḿnh. Ta có thể, thậm chí buộc phải công nhận, theo chính các quy tắc của ta về sự hiểu biết, rằng sự ăn khớp này là hệ quả của một nguyên nhân hay một chuỗi nhân quả: hoặc giả chính Nguyên nhân đầu tiên[2] đă thích nghi tức th́ cơ quan vào chức năng theo sự đ̣i hỏi của thiết kế tổ chức; hoặc giả xuyên suốt thời gian mênh mông, các nguyên nhân thứ yếu đă móc xích lôi cuốn nhau làm biến đổi dần dần cả cơ cấu lẫn chức năng, để cuối cùng tạo ra sự hài ḥa ở bất cứ nơi nào có thể, và bỏ những thứ bất trị lại cho sự hủy hoại. Thế nhưng khoa học không có cách nào vươn tới nguyên nhân đầu tiên với hành động sáng tạo bất thần của nó1, hoặc các nguyên nhân thứ cấp với hành động tạo dựng chậm chạp của chúng. Nguyên nhân không c̣n là nguyên lư có thể cung cấp đường dây hướng dẫn cho sự nghiên cứu khoa học nữa: lư do tự đứng ra thay thế như nguyên tắc. Nếu động vật có răng thích hợp để xé con mồi, đấy chính là bởi nó sống nhờ ăn mồi, nên hệ quả là mọi bộ phận cơ thể của nó, nội tạng cũng như ngoại tạng, phải phù hợp hoặc trước kia từng phù hợp, nếu là loài đă tuyệt chủng với lối sống này[3]. Do đó, các nhà giải phẫu học sẽ biết phải hướng việc nghiên cứu của ḿnh về ngả nào, để chứng minh sự hiện diện trong cơ thể của tất cả những ǵ mà lư trí của ông đă báo trước rằng ông ta sẽ nh́n thấy ở đấy; và nhà cổ sinh vật học sẽ có thể tái tạo lại hầu như hoàn toàn loài vật tuyệt chủng từ một số mảnh xương khai quật được, trong khi chờ những khám phá đầy đủ hơn. C̣n việc dựng lại, dù chỉ như một sự mô phỏng thô sơ, mạng lưới những nguyên nhân đă dẫn tới sự h́nh thành hoặc sự hủy hoại của loại sinh vật, th́ ông ta phải từ bỏ hoàn toàn trong nhiều trường hợp.

Trong lịch sử đích danh, kẻ hiếu kỳ các giai thoại bỏ công t́m kiếm những nguyên nhân, đặc biệt là nhằm cho thấy thường có những chênh lệch như thế nào giữa sự nhỏ bé của nguyên nhân so với sự lớn lao của hệ quả[4] hạt cát[5] trong niệu quản của Cromwell chẳng hạn. Nhưng lịch sử triết học, lịch sử lớn ít khi dừng lại ở loại nguyên nhân cỏn con. Nó t́m kiếm một lư do đủ lớn cho những biến cố lớn, nghĩa là một lư do mà tầm quan trọng tương ứng với sự trọng đại của các biến cố, và mặc dù không có tham vọng luôn luôn với tới, v́ lư do này có thể nằm ngoài phạm vi điều tra, nó cũng thường đạt được. Một cấu h́nh địa lư, sông núi… không phải là nguyên nhân theo đúng nghĩa của từ này, tuy nhiên, sẽ không ai ngạc nhiên khi t́m thấy ở đấy chiếc ch́a khóa, lời giải thích hoặc lư do của sự phát triển lịch sử một quốc gia trong các nét chính của nó những nét xứng đáng được ghi khắc trong trí nhớ con người[6]. Sự thành công của một âm mưu, một vụ bạo loạn, một lần đầu phiếu có thể sẽ quyết định một cuộc bùng nổ cách mạng mà lư do phải được truy t́m trong sự lỗi thời của những thiết chế hủ lậu, trong sự thay đổi tập tục và tín ngưỡng, hoặc ngược lại trong nhu cầu thoát khỏi rối loạn và trấn an những lợi quyền hốt hoảng. Đấy là những ǵ các nhà sử học triết gia có trách nhiệm đưa ra, đồng thời vất những sự kiện không đáng kể lại cho kẻ ṭ ṃ phù phiếm lấy làm thức ăn, bởi v́ ta hoàn toàn có cơ sở gán những sự kiện không đáng kể ấy cho sự ngẫu nhiên, mặc dù chúng được liệt kê trong chuỗi các nguyên nhân.

Ngẫu nhiên! Phải chăng từ này tương ứng với một ư tưởng có nội dung nhất quán riêng, có cứu cánh nằm ngoài chúng ta và những hậu quả mà chúng ta không thể né tránh, hay nó chỉ là một âm thanh trống rỗng, một hơi thở th́ thào[7], cái được sử dụng để che giấu sự dốt nát có nguồn gốc thực sự từ chính chúng ta, như Laplace[8] từng tuyên bố? Về điểm này, xác tín của chúng tôi đă h́nh thành từ lâu, và đă có dịp nhắc qua trong quá tŕnh nghiên cứu này. Không! Ngẫu nhiên không phải là một từ không có liên hệ ǵ với thực tế bên ngoài; nó diễn tả một ư tưởng có biểu hiện trong các hiện tượng quan sát được, và với một hiệu quả mà sự điều hành thế giới phải ghi nhận; một ư tưởng đặt  trên lư trí ngay cả đối với một sự thông minh cao hơn trí thông minh của con người nhiều và thâm nhập vào vô số nguyên nhân mà chúng ta không biết tới. Ư tưởng này là sự độc lập và sự giao thoa bất ngờ của các chuỗi nhân quả khác nhau: hoặc v́ khi vươn lên, chúng ta có thể t́m thấy cái khoen chung chúng được móc vào, và từ đó chúng bị tách ra; hoặc v́ chúng ta giả định (bởi v́ đây chỉ có thể là một giả thuyết) rằng các chuỗi nhân quả luôn luôn duy tŕ sự độc lập với nhau, dù ta vươn cao đến đâu2. Một viên ngói rơi xuống từ mái nhà, dù tôi có đi qua con phố đó hay không; không có sự kết nối, không có sự liên đới, không có sự tùy thuộc nào giữa các nguyên nhân đă khiến ḥn ngói rơi xuống và các nguyên nhân đă khiến tôi ra khỏi nhà để đến bưu điện gửi thư. Viên ngói rơi ngay vào đầu tôi, thế là nhà lôgic học cổ điển bị vô hiệu hóa vĩnh viễn: đây là một cuộc gặp gỡ t́nh cờ, hay đă xảy ra một cách ngẫu nhiên. Mệnh đề này có cùng một ư nghĩa, đúng cho cả người biết, lẫn kẻ không biết các nguyên nhân nào đă khiến ḥn ngói rơi xuống, và các nguyên nhân nào đă khiến tôi ra khỏi nhà. Những sự kiện xảy ra một cách t́nh cờ hay bởi sự kết hợp ngẫu nhiên chẳng những không phải là ngoại lệ đối với ư tưởng nhân quả, không phải là những hiệu ứng không có nguyên nhân, mà c̣n đ̣i hỏi sự tham gia của nhiều nguyên nhân hay chuỗi nhân quả để được sản sinh ra. Tính ngẫu nhiên chỉ do sự độc lập của các chuỗi nhân quả cùng tác động một lúc. Nếu sự ngẫu hợp cho thấy một sự kỳ quặc nào đó, th́ chính sự kỳ quặc này cũng có một nguyên nhân, nhưng nó không có lư do, và chính v́ vậy mà nó khiến ta ngạc nhiên, chúng ta những kẻ mà ngay từ thời thơ ấu đă quen thói luôn luôn t́m kiếm và đôi khi cũng t́m thấy lư do của mọi sự vật. Ở một cuộc rút thăm trái phiếu, tôi giành được một trăm ngh́n quan tiền thưởng, và tôi đă thắng một cách t́nh cờ: bởi v́ người ta đă sắp xếp để không thể có một liên hệ nào giữa các nguyên nhân có ảnh hưởng tới vị trí của những con số, và các nguyên nhân khiến con số trúng được bốc ra. Thế nhưng, bởi v́ phải có ai đó trúng thưởng, nên sự kết hợp ngẫu nhiên đă dành nó cho tôi, và nếu nó luôn luôn là đáng kể đối với tôi, nó sẽ chỉ được quần chúng lưu ư nếu, bởi một ngẫu nhiên khác, tôi là thằng kiết xác hay nhà triệu phú, tên vá giày hay nhà tài chính.

Antoine-Augustin Cournot, 

Matérialisme, vitalisme, rationalisme

(Duy vật, duy sinh, duy lý), 1875, 

Trg: A. A Cournot Toàn tập, q. V,

Paris, 1979, tr. 173-176

 



[1] Sự phân biệt nguyên nhân (những sự kiện đă xảy ra trước) với lư do (cái nguyên lư khiến sự vật là hiểu được), đã khiến các nhà khoa học theo chủ nghĩa thực chứng chủ trương rằng, khi một hiện tượng bất kỳ nào xảy ra, nhà khoa học chỉ cần t́m hiểu cái «như thế nào», chứ không cần phải t́m biết cái «tại sao (pourquoi)» của sự kiện (Xem phản biện của Antoinette Virieux-Reymond trên trang này). Trong bài viết ở đây, A. A. Cournot cũng cho thấy rằng sự giải thích đơn thuần bằng nguyên nhân là vô hiệu đối với những hiện tượng phức hợp, như trong các lĩnh vực sinh học và sử học.

[2]  Giả thuyết Thượng Đế tạo lập vũ trụ. 

[3]  Sự t́m giải đáp cho câu hỏi «để làm ǵ?», như nguyên nhân cuối cùng, là thiết yếu trong các khoa sinh học, ít ra như một hướng dẫn khám phá. Nếu áp dụng «định đề khách quan» của vật lý học (nhà vật lý không quan tâm đến câu hỏi: vì sao lực hấp dẫn tồn tại?) vào sinh học, thì có vẻ như ta đã tự ngăn cấm mình nghiên cứu các loại sinh vật (loại hữu thể có dự phóng mà cả tổ chức lẫn hành vi đều như muốn thích nghi vào một mục đích).  

[4] Ở đây, tác giả minh họa bằng 3 ví dụ lấy từ lịch sử Âu châu. Chúng tôi chỉ giữ lại trường hợp hạt cát trong niệu quản của Cromwell, và thay hai trường hợp kia bằng thí dụ về chiếc mũi của Cléopâtre.

[5] Oliver Cromwell (1599-1658), nhà lănh đạo chính trị và quân sự Anh theo Thanh giáo, người đóng vai tṛ quan trọng trong việc thành lập nền Cộng ḥa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông chết v́ bị sỏi đường niệu, cái chết của ông đă dẫn đến sự chấm dứt nền Cộng ḥa và tái lập nền Quân chủ. Điều này khiến Blaise Pascal viết ra câu b́nh luận nổi tiếng: «Cromwell sắp tàn phá đạo Cơ Đốc; hoàng gia đă lụn bại trong khi ḍng họ ông chưa bao giờ hùng mạnh như thế, nếu một hạt cát không chui vào niệu quản của ông ta =   Cromwell allait ravager toute la chrétienté ; la famille royale était perdue, et la sienne à jamais puissante, sans un petit grain de sable qui se mit dans son uretère».

Một thí dụ nổi tiếng khác là cái mũi của nữ hoàng Ai Cập Cleopatra. Cũng chính B. Pascal đă viết: «Diện mạo mặt đất có thể đă thay đổi, nếu cái mũi của Cleopatra ngắn hơn một chút = Le nez de Cleopâtre, s'il eût été plus court, toute la face de la terre aurait changé». Dù giải thích kiểu nào theo nghĩa đen, câu văn vẫn luôn luôn được hiểu nhất quán theo nghĩa bóng như ở trên.

[6] Trong sử học, để hiểu rốt ráo ư nghĩa của một sự kiện lịch sử, sử gia không thể chỉ quan tâm đến những sự kiện đã xảy ra trước, mà còn phải vừa cân nhắc ý đồ và tâm lý của nhân vật lịch sử (yếu tố chủ quan), vừa phân tích mọi tình huống chính trị, kinh tế, xã hội và điều kiện nặng tính cấu trúc (mà ngày nay nhiều sử gia gọi là nguyên nhân sâu xa hay nguyên nhân cấu trúc).  

[7] Flatus vocis, thành ngữ la-tinh do flatus (hơi thở) và vox (tiếng nói) hợp thành.

[8] Xem trên trang mạng này: Pierre-Simon Laplace, Một trí thông minh «khá rộng» sẽ tiên đoán được tương lai một cách chính xác & Antoine-Augustin Cournot, Ngẫu nhiên như sự giao thoa của các chuỗi nhân quả độc lập. Bình thường, khi lư do của một sự kiện không hiện ra rơ ràng, ta có xu hướng gọi những ǵ đă xảy ra là «t́nh cờ», hiểu ngầm là «không có nguyên nhân». Và Laplace tưởng đă vĩnh viễn biến ư niệm ngẫu nhiên thành vô nghĩa trong khoa học, khi ông giản lược nó vào biểu hiện của sự bất lực nhằm xác định mọi thông số hữu quan trong hệ thống vũ trụ. Nhưng trái với giả định ngầm của Laplace, Thiên nhiên không hề là một khối liền thân mà giống như sự ghép mảnh của nhiều hệ thống – khi độc lập, lúc liên đới với nhau. Và nếu luật nhân quả thực sự cai quản mỗi hệ thống, nó không chi phối sự giao thoa t́nh cờ giữa các hệ thống này.