HuyenSu

Mai Ninh

 

huyền sử sông Nil

 

 

không có gă thanh niên bỏ những

kèn đồng giữa chợ dẫn tôi vào

sau cánh cổng sơn xanh sắt ố

bờ tường vỡ lở dốc trần cầu

thang, lớp học hành lang trống buổi

chiều hè chất đống ghế bàn chờ

sơn cọ sửa sang cho kịp tựu

trường, tôi đă chẳng biết trong ḷng

đời sống bụi dơ lay lất bẩn

da đen nắng cháy vẫn c̣n nơi

thơ rực thắm bông hoa của gă

con trai mới được quá hai mươi

ngồi vẽ dưới mây cho đám trẻ

em nghèo một lớp học trên tường

h́nh ảnh sáng vui thay rác rưởi

dềnh quanh chợ búa.

 

 

không có chàng thanh niên lạ lẫm

mời tôi vào quán bờ đường uống

thêm một ly cà- phê đọng bă

đen nhờ và thổi vài hơi khói

ṿng nạc- ghi- lê kêu bập bập

làm sao tôi biết người chủ quán

đă bắt chàng ta trả đắt mười

lần giá cốc cà phê v́ dám

mời một người đàn bà ngoại quốc

không quen, bằng món tiền ăn một

ngày với ba đồng Ai Cập đắng

cà-phê ngoài phố bờ đường bụi

bay múa hồn nhiên trong chiều nắng

 

 

không có con tàu trôi giữa hai

bờ sông, chỉ là người lách vào

huyền thoại bao ngàn năm ngủ yên

vua trời đội đêm kêu hoảng trong

mồ mả đền đài chùm bóng không

gian u uất mênh mông phận người

đen cháy da nuy-bi bị lưu

đày ra khỏi quê hương đất ph́

nhiêu gánh lênh đênh lưng lạc đà

trên sa mạc ngh́n năm, dứt tim

ĺa những ngôi nhà tường vẽ hoa

và chim sắt trong tia mặt trời

gương chiếu t́nh yêu điên của bà

hoàng I-ris đào sông để t́m

thân thể người t́nh chung bị thù

nhân chặt mười bốn khúc thả trôi

trong ḍng đục thù ghen. Cuối cùng

chỉ c̣n thiếu đôi mắt đắm sâu

cho Huyền sử sông Nil không thoát khỏi

Chữ T́nh. 

 

 

(Nil, 2003)