VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

QUA TRANH TÔ BÍCH HẢI

 

Người mang hai gịng máu tới một lúc nào đó thường t́m hiểu cội nguồn, người sống xa quê hương tới một lúc nào đó thường quay về cố quận,  và người mang hai gịng máu sống xa quê hương tới một lúc nào đó luôn bị lương tâm cật vấn  “Ḿnh là ai? Và ḿnh từ đâu tới” , thôi thúc đi t́m gốc rễ, “cái gốc ăn sâu vào đất. Nhưng đất nào đây?”(*), bởi đất ngụ cư và đất chôn nhao cắt rốn đều thân thiết như nhau, đều là một phần da thịt, con tim và óc năo của ḿnh.

Đó là tâm trạng chung đă thể hiện lên tâm hồn riêng của Tô Bích Hải, nhà hoạ sĩ sinh ra và lớn lên ở miền núi xứ Tày nhỏ bé hoang sơ bị kẹp giữa hai nước Việt - Hoa, thuở nằm nôi nghe lời ru ầu ơ của mẹ bằng tiếng Việt cũng quen thuộc như nghe tiếng cồng chiêng, nhạc cúng và chuyện hoang đường thần cây thần đá tiếng Tày ngày khôn lớn. Rời quê vào tuổi đôi mươi với t́nh yêu thiên nhiên và đam mê nghệ thuật, chị đă ngao du từ Âu sang Mỹ, lân la từng bậc cấp nhà thờ đến bậc thang cầu đá già cỗi mấy ngh́n năm – nơi mang ít nhiều dấu tích cổ xưa, với hy vọng có thể ghé mắt vào một khe hở t́nh cờ nào đó hầu bắt gặp “một thế giới khác, thế giới bên kia của những hồn ma và thần linh ngày cũ” (*). Năm qua tháng lại cặm cụi kiếm t́m, chị phác thảo lên mặt giấy nhiều nét chưa rơ nét, h́nh thù chưa rơ h́nh thù, bối cảnh chưa là bối cảnh… Rồi ngọn bút cứ đẩy đưa chị miệt mài nét đậm nhạt tô bật chúng lên, cho đến ngày những ngọn cây, muôn thú, những khuôn mặt mọi lứa tuổi, những thân thể hai giới tính, những t́nh huống mọi giai cấp và mọi giai đoạn cuộc đời cứ như từ hậu trường lừng lững bước ra phía trước sân khấu chưa kịp lên đèn, và chị giật ḿnh: đâu đó trong những bóng h́nh mông lung ch́m nổi, vô t́nh chị đă làm hiển lộ toàn thể chúng sinh trong Văn Tế Thập Loại mà đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đă vực dậy bằng lời.

Chị đă t́m thấy cội nguồn, một cội nguồn vinh hiển và đau đớn, nhục nhằn nhưng bất khuất, thơm thảo nhưng đầm đ́a những máu. Chị đă t́m thấy cội nguồn không từ nơi ḿnh chào đời mà là nơi sinh sống và ngao du. Chị đă t́m thấy cội nguồn với bước đầu bằng những hồn ma bóng quế xứ người, vật vờ như đám ma Hời v́ Kẻ thân thích vắng sau vắng trước, Biết lấy ai bát nước nén nhang? Cô hồn thất thểu dọc ngang, Nặng oan khôn lẽ t́m đường hoá sinh? Và chị nhất định vực họ lên nhờ cụ Tiên Điền tế độ. Và chị để trọn hồn ḿnh lao đao theo họ bằng 17 bức tranh trên giấy lụa mỏng manh như số phận con người, thanh tao như linh hồn đă thoát tục, buồn buồn như Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, toát hơi may lạnh buốt xương khô…

Cuộc triễn lăm diễn ra vào đầu tháng tư trong căn nhà bảo tàng Điềm Phùng Thị. Hai người đàn bà tài hoa của hai thế hệ gặp nhau trong không gian Huế trầm tịnh đang rộn ràng chuẩn bị Festival 2012, đă lôi cuốn được khá đông khách tham quan trong nhiều ngày và họ không tiếc lời ca tụng.  Bởi v́ nó lạ chưa hề thấy, nó thanh v́ không màu sắc chói chang, nó gây xúc động v́ có chủ đề u buồn, nó trang trọng v́ nói lên kiếp trầm luân nhân thế, nó mang âm hưởng thiêng liêng khiến người xem trao đổi phải th́ thầm. Ngay Cũng có kẻ lỡ làng một tiết, liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa, mà không xiêm y sắc màu lộng lẫy hay trâm cài lược giắt, bởi v́ trên tranh Tô Bích Hải họ đă Ngẩn ngơ khi trở về già, ai chồng con nấy biết là cậy ai? Kẻ giàu sang phú quư dù được đội mũ trên đầu nhưng với đôi chân trần, rồi cũng sẽ  là nắm xương khô, bởi Của phù vân dẫu có như không. Sống thời tiền chảy bạc ḍng, Thác không đem được một đồng nào đi…Rừng người chập chùng thay cho phong cảnh bao la thường thấy trong nhiều tranh, mà cũng không phải người, chỉ là những đôi mắt thất thần, chiếc miệng há mở dở chừng, ngơ ngác, u ẩn hay thảng thốt lo âu, tóc ngược xuôi đảo điên trong gió. Bởi v́ ngay cả tướng tá oai phong lẫm liệt bách chiến bách thắng, nhưng Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Băi sa trường thịt nát máu trôi, Bơ vơ góc bể chân trời, Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao? Nên toàn thể không có không gian bát ngát, không kỷ xảo điệu đàng hay hoa cỏ màu mè, tất cả chỉ là những sinh linh trừu tượng màu ch́ nhu nhă xanh da trời hay cà phê nhạt, hàng hàng lớp lớp h́nh hài người và vật.  Với chú thích song ngữ Việt - Pháp lời Văn Tế bên cạnh mỗi bức tranh khiến cái hồn Văn Tế bằng nét cọ càng thấm sâu thâm thúy, thoạt nh́n đă nổi da gà, đă thấy và nghe được cơi dị thường:

Trời xâm xẩm mưa gào gió thét

Khí âm ngưng mờ mịt trước sau

 

Rồi trong cái mông lung âm dương, trong cái thực của bài văn tế đă có gần ba trăm năm và cái hư của những bức tranh c̣n thơm mùi giấy lụa, giọng đọc diễn cảm của nhà thơ Vũ Phán khiến người xem rờn rợn  động ḷng nh́n lại ḿnh trong kiếp phù du: không ai tránh khỏi một ngày nào đó cũng phân vân lưu luyến khăn gói đi tới Cầu Nại Hà kẻ trước người sau, Mỗi người một nghiệp khác nhau, Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

V́ cuộc triễn lăm khai mạc vào buổi chiều mà máy bay người bạn chí cốt của chị từ Pháp trễ về tới nơi buổi tối, chị “tái khai mạc” cho bạn. T́nh cờ có một vị sư đến xem tranh, cám cảnh sinh t́nh bèn làm một buổi tụng kinh cầu nguyện. Duyên ở đâu, tự nhiên các đệ tử theo thầy đều có mang áo tràng nên mọi người tham dự lễ cúng tế đều gói ḿnh trong áo Phật. Dưới ánh đèn vàng trườn ra từ giữa các bức tranh bắt chéo, đèn trên cao rọi xuống, trong khói nhang bảng lăng, giọng ngân nga kinh kệ tiếng Phạn bí ẩn… các khuôn mặt trong tranh như được ban phát linh hồn, lấy được hơi thở, ư thức được khung cảnh chung quanh, lung linh lung linh sống động, hối hả:

Lôi thôi ẵm trẻ dắt già

Có khôn thiêng hỡi lại mà nghe kinh

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u…

 

Rất nhiều khách trẻ đến xem triển lăm, đặt câu hỏi. Với lứa tuổi này, văn tế vẫn là cái ǵ xa xôi lạ lẫm, có phần nào dị đoan mê tín. Nhưng một cô gái đă khóc khi chị bạn giải thích bức tranh có nhiều hài nhi với ghi chú Ḱa những kẻ tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh ĺa mẹ ĺa cha, Lấy ai bồng bế vào ra, U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi ḷng…, cũng như nhiều người sau khi chăm chú nh́n tranh đă kín đáo quay mặt đưa tay chặm mắt. Giữa căn pḥng, tác phẩm điêu khắc của Điềm Phùng Thị là bức tượng đá đen h́nh người đàn bà biểu hiện cho Mẹ Đất, nh́n đám con cháu với ánh mắt bao dung măn nguyện. Hôm sau trong bữa cơm trên đường ra Bắc, nhân viên nhà hàng thích thú ngạc nhiên thấy trên truyền h́nh hoạ sĩ đang đọc diễn văn khai mạc và…đang nói cười ăn uống trong tiệm của ḿnh !

Không biết đă hoạ sĩ nào làm công việc như vậy chưa. Nếu chưa th́ Tô Bích Hải đă sáng tạo một cách mới cho nghệ thuật. Nếu có rồi th́ ít nhất chị đă vinh danh văn hoá nước nhà bằng cách làm sống động tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du bằng hội hoạ. Có thể sẽ hơi cường điệu nếu nói đây là cuộc triễn lăm vô tiền khoáng hậu. Thôi th́ cứ giản dị tuyên bố là chưa bao giờ thấy và không biết có c̣n thấy ở một triển lăm khác nữa không. Ngoài việc nó gây “ấn tượng” v́ rất ẩn dụ và độc đáo, người xem đừng chờ đợi một cái ǵ “hoành tráng” xôm tṛ, hăy để ḷng nhẹ nhàng thanh thản đến với tranh, bởi v́ khi thai nghén ṃ mẫm để h́nh thành các bức tranh này, một Tô Bích Hải với phong thái khiêm cung đă đem cả hồn lẫn xác “thực hiện một cuộc hôn phối giữa đá và giấy lụa bằng cách cọ xát và mơn trớn như một làn da.

Rồi nếu quên được ḿnh, nếu thả hồn theo đá để nên một với đá, đá sẽ từ từ xuất lộ. Hiện lên một mạng tơ.

Mạng tơ dệt bằng những kư hiệu, những vết tích h́nh thành từ triệu năm, xin để mỗi người t́m cho ḿnh chiếc ch́a khoá hay dây tơ hồng dẫn sang bên kia tấm gương, bên kia bờ bến và dệt cho ḿnh sứ điệp thầm kín của riêng ḿnh” (*).

 

Xuân Sương

Paris, Aout 2012

(*) Trích lời Tự bạch của Tô Bích Hải (1947-).

- Văn tế trích từ Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh / Mai Quốc Liên khảo luận.- Tp.  HCM: nxb Văn Nghệ, 1991.