13CSongMe

 

13 Bọt nước sông Mê

 

Quay người lại, Nhật mỉm cười nh́n Mai đang vén áo ngồi xuống mỏm đá chênh vênh bên bờ sông. Mai nhỏ nhẹ :

- Ở khúc sông này, nước xô vào ghềnh, bọt sủi trắng gào như người giận đến sùi bọt mép. Thời gian anh Thức chưa về đây, cứ vào ngày nghỉ, tôi bế cháu Thư ra ngồi lắm khi từ sáng đến tối. Chờ đợi. Đợi một cánh thư. Đợi một lời nhắn. Cứ thế năm này đến năm nọ. Nh́n bọt nước, nghĩ măi. Rồi tôi học được một điều : ở mức cuối cùng của mọi chờ đợi, có hay không chung cục chẳng khác ǵ nhau.

Ánh nắng mai vừa đậu cánh óng ánh vàng trên những tàn cây muốt màu ngọc bích. Mây lưng chừng ḥn núi chắn cuối sông lững lờ tách ra thành những sợi bạc mỏng mảnh tan lẫn vào màu da trời. Vết sẹo dài trên má Mai khơi nhắc Toàn Nhật thuở sống ở Kinh Kỳ, trước buổi loạn kiêu binh lập Tông phế Cán thời Chúa Trịnh.Vết sẹo ấy do chính bàn tay Tuyên phi Đặng thị Huệ quào vào mặt em ḿnh v́ Mai trốn khỏi Cấm cung, nhất quyết không chịu lấy Thái tử Lê Duy Cẩn, chỉ một ḷng dâng hiến đời ḿnh cho Trọng Thức.

Vừa lên ngôi Chúa, Tông bắt giam Huệ. Cán lên sáu, sợ quá cấm khẩu, lại nóng sốt li b́, chỉ khóc ư ử trong họng. Rêu rao thưởng một trăm lạng vàng cho ai chữa được Cán xong, mẹ Tông là Ngọc Hoan vào, tḥ hai tay ra bóp mũi Cán. Rồi Hoan bắt Huệ đến qú trước mặt. Huệ cắn răng đứng lên, bị đánh vỡ đầu gối, nhưng ngạâm miệng nhất định không rên rỉ. Sau, Ngọc Hoan bắt Huệ lên lăng Thịnh Phúc, nơi chôn cất Chúa Trịnh Sâm. Ngày Huệ vào lạy bài vị, đồ thờ bằng vàng chảy ra như bị thiêu, đồ thờ bằng gỗ mủn đi hóa thành bụi. Ba ngày sau, Huệ tự thắt cổ, chết lưỡi thè ra dài chấm đến bụng dưới.

Nhật bất giác mỉm cười. Nh́n ḱa, những bọt nước giữa ḍng kia vỡ thành ngh́n hạt li ti, mỗi hạt đều phản chiếu h́nh ảnh núi, rừng, cây cỏ, và cả h́nh ảnh Mai lẫn Nhật. Có hạt rơi trên đá, bốc hơi thành mây, mây bay đi gặp lạnh hóa mưa, mưa rơi trên núi cao, trên đồng ruộng. Có hạt rơi trên nước, theo ḍng luân lưu, về sông Nhị hay sông Đà, lúc bồi vào đất, khi ra biển rộng. Không có ǵ tự sinh, không có ǵ tự diệt. Hạt nước đó đă có từ ngh́n vạn đại, mang vô số h́nh tướng trong cái lẽ biến dịch bất thường từ những duyên khởi vô thủy vô chung. Chỉ một hạt nước, đă là vạn vật, đă có nắng, có mưa, có đất, có Mai, có Nhật, có những kiếp người từ trăm ngh́n năm trước, có rừng núi từ thuở nguyên sơ. Như vậy, hạt nước làm ǵ có tự ngă. Như vậy, Huệ, Sâm, Tông, Cán ... làm sao có thể có ǵ gọi là tự ngă. Mà đă không có ngă, th́ phế - lập - đánh - giết - ... để làm ǵ ? Tạo nghiệp. Chỉ là tạo nghiệp. Rồi nghiệp sinh nghiệp. Ṿng vô minh rộng ra, phủ xuống cơi nhân sinh u mê đắm đuối.

Nước mắt bỗng rưng rưng, Nhật nói nhỏ nhẹ :

- Mô phật. Chị nói phải. Có - Không là hai mặt của một đồng chinh ta cầm trong tay. Ta nhận thức, phân biệt ra cái ta gọi là Có, cái ta gọi là Không. Nhưng vẫn chỉ là một đồng chinh.

Mai tần ngần :

- Lúc ấy, tôi tỉnh ra. Ôm cháu vào ḷng, tôi nhủ rằng sống là sống với hiện tại. Cứ thế chục năm ṛng, sự sống đó đối với mẹ con tôi ở trong kia ...

Tay chỉ, Mai đứng lên tiếp :

- ... là cái cưu mang được phần hồn. Chú vào với tôi, chú sẽ thấy. Cháu Thư đă vào thưa với Mẹ-bề trên rồi.

*

Quanh co sau hai cái dốc, những mái nhà lợp lá cọ thấp thoáng hiện ra trong tầm mắt. Chạy lên đón Mai và Nhật, chàng thanh niên tên là Quốc Thư, có cái miệng giống hệt miệng Trọng Thức, tươi cười :

- Chú với mẹ đến vừa lúc ăn sáng. Con đă xin thêm một xuất và báo là cha con hôm nay nghỉ không lên trại được...

Đưa tay đỡ cái giỏ cho mẹ, Thư hồn nhiên :

- Chú đến đây là thật là hi hữu, lần đầu một nhà sư vào thăm trại đấy ! Giê-su-ma, Mẹ-bề trên cứ hỏi đi hỏi lại, sợ cái này cái nọ - Thư cao giọng, vừa cười vừa nói - lại c̣n bắt cả trại quét dọn cho sạch sẽ để tiếp khách. Con có thưa là chú Nhật thay cha làm việc thường ngày nhưng Mẹ-bề trên không bằng ḷng đâu.

Thân ái ṿng tay ôm vai Thư, Nhật xuống dốc, nghe Thư láu táu :

- Biết con từ ngày con c̣n trong bụng mẹ con - Thư ranh miệng, đùa - chú có thấy con lớn lên không ?

Nhật vui vẻ, đùa lại :

- Có, nhưng h́nh như chỉ một tí ! Cha con đi đâu ?

- Cha con có chú vui hẳn lên. Cha con ở nhà viết lách cái ǵ cho chú đấy.

Vào đến trại trong, một người đàn bà đă cao tuổi mặc áo thụng màu xám, đầu đội mũ rộng vành kiểu các bà sơ, chạy ra đon đả :

- Xin chào thầy. Thầy quá bộ đến thăm thật là quí hóa. Trại chúng tôi nghèo, chẳng làm sao tiếp thầy cho trịnh trọng, thầy đừng lưu tâm, bỏ qua cho.

Nhật chắp tay, cúi đầu :

- Cám ơn Mẹ. Kẻ xuất gia đâu có giàu hơn ai. Mẹ đừng bận ḷng. Cũng xin phép Mẹ cho được làm cái việc của anh tôi là Trọng Thức hôm nay không lên trại...

- Úi giào ! Cái đó th́ thầy để khoan cho. Xin thầy dùng bữa sáng với chúng tôi đă.

Bước theo Mẹ-bề trên, cả bọn vào một căn nhà sáu gian, nơi trại dùng làm pḥng ăn. Nhật thót bụng nh́n. Trên những dăy bàn là những người mà xă hội xua đi. Kẻ mất mũi chỉ c̣n hai lỗ thở sâu hoắm. Người bị rụng ngón, bàn tay bàn chân nay chỉ c̣n hai ba ngón, chốâng nạng lết đi ... Họ đứng cả dậy để chào, ngượng nghịu cười, rồi lại lục đục ngồi xuống.

Trại có lẽ có đến gần hai trăm người. Bệânh c̣n nhẹ, măït họ chỉ sần sùi, mắt sưng lên, da dẻ như bị ban ửng đỏ rồi thâm sịt lại sau một thời gian. Nặng hơn, bệnh đục vào ăn xương ăn thịt, làm lở loét, khoét vào mồm vào mũi, rồi chân tay. Trại tự lực cánh sinh. Những người bệnh nhẹ có sức phải canh tác, phạt rẫy trồng trọt ngô, khoai, cấy mười mẫu ruộng nằm ở tả ngạn sông Mă. Những người sức đă yếu th́ thêu may hoặc đan rổ đan rá, gộp lại nhờ mang bán ở chợ trên vùng Nghĩa B́nh không ai biết đến trại hủi ở xa măi tít sông Mă. C̣n lại, người bệnh nặng kiệt sức chỉ lo những việc nhẹ, nấu nước, lau chùi. Khi lập gia đ́nh, họ ở riêng. Nếu không, họ tụm vào cứ năm sáu người một nhà. Tất cả đều ăn chung với nhau, việc củi lửa nấu nướng tập trung cho toàn trại để tiết kiệm nhân lực và thời giờ. Thuốc men thật không có ǵ, chỉ toàn là lá và rễ cây theo những bài thuốc Nam nhặt nhạnh được. Không hy vọng khỏi, họ yên phận, hẹn với nhau là có đau đớn th́ t́m chỗ riêng mà rên rỉ để khỏi làm nhụt ḷng những kẻ đồng bệnh. Và họ sợ nhất là tuần trăng lên. Trăng lên khiến họ có cố nhịn mà vẫn không ḱm được, tiếng rên la kêu đau và tiếng cầu kinh om lên một vùng. Mai vào Hương Sơn t́m Hải Thượng Lăn Ông, tạ ơn đă cứu cái bào thai trong bụng ḿnh ngày c̣n bị giam hăm ở kinh kỳ, rồi xin Lăn Ông một bài thuốc. Lăn Ông đích thân vào trại, ở suốt một tháng, đi quanh kiếm cỏ kiếm lá rồi sao rồi sắc, h́ hục cả ngày. Bài thuốc t́m ra xong, Lăn ông giao cho Mai, dặn ḍ kỹ lưỡng rồi về. Từ đó, dẫu bệnh chưa chữa được khỏi, đă bớt đi dăm phần đau đớn, những tuần trăng lên không c̣n là một nỗi kinh hoàng cho cả trại.

Mẹ-bề trên kéo ghế mời Toàn Nhật, rồi th́ thào :

- Bệnh phong cùi này nếu biết chống th́ không lây được - Nắm tay Mai, Mẹ nói tiếp - đấy, d́ Mai ở đây đă gần hai mươi năm nay mà có sao đâu ! Thầy đừng sợ, cứ ăn nhé !

Nói xong, Mẹ Bề trên cúi đầu, mắt nhắm lại, miệng đọc kinh :

« Lạy Cha chúng con ở trên blời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên blời vậy... »

Mọi người đều lẳng lặng, nghiêm trang. Nghe xong, họ đưa tay làm dấu thánh giá.

*

Với tay cầm một khúc sắn luộc nóng, Nhật từ tốn ăn, mắt nh́n Mai, ḷng cảm phục pha với chút ngậm ngùi. Sau khi sinh hạ Quốc Thư ở quê nội làng Phù Đổng, Mai gửi con cho một bà cô rồi lên đường lặn lội đi t́m Thức. Thời gian đó, Thức đă lưu lạc qua Pondichéry bên Ấn Độ, rồi phiêu dạt đến Paris, nhưng chẳng một ai biết tin. Ngày Mai gặp được Trần Danh Kỷ ở Phú Xuân, Kỷ không nỡ kể chuyện Thức bị đẩy ra biển, chỉ nói là đă gặp Thức, sau đó th́ bặt vô âm tín. Mai khóc, nhưng linh tính rằng c̣n có ngày thấy mặt Thức. Về Phù Đổng được ít lâu, Mai bế con lên trại Bùi Phong chào gia đ́nh La Sơn Phu tử. Sau đó, Mai lại quay lại Đa Phạn, vùng Thức đă lẩn trốn sau ngày bị Tế Lư lùng bắt. Giáo hữu đón tiếp mẹ con Mai như ruột thịt. Ai cũng gọi Mai bằng « cô », nhắc đến « thầy » Thức bằng những lời tŕu mến trang trọng, mặc dầu không phải không có người biết Mai là em Đặng thị Huệ và Đặng Mậu Lân, kẻ bàn dân Kinh Kỳ gọi là « hung thần mắt cú » đă từng thiêu sống những người cùi hủi.

Giáo hữu ở Đa Phạn tản đi, có kẻ tạt xuống Hải Hưng, có kẻ suôi vào miệt Bùi Chu, phần để tránh bị vây hăm bởi đám quân quan thời Nam đoan Vương, phần muốn tạo thế ỷ giốc để nương tựa vào nhau. Từ khi giáo sĩ Seiyès đă tử v́ đạo, chỉ c̣n có Thầy Xứ dẫn giắt giáo dân trong vùng kéo vào Hưng Nguyên. Thời đó, số người bị bệnh hủi từ Kinh Kỳ bị đẩy đi vẫn c̣n sống tụ tập ở thôn Bùi Ngơa phía đông kênh Sắt. Mẹ-bề trên, thuở c̣n trẻ tên gọi là d́ Phước, một ḿnh cưu mang đám người tật bệnh, tất bật từ sáng đến tối. Khi Mai vào thăm trại hủi, một thằng bé chừng mười hai mười ba, hai bàn tay ngón bị rút cụt hết, xỉa xói vào mặt, thét : « ... thằng anh mi đă thiêu sống cả gia đ́nh nhà tao », mắt trợn trừng đỏ ngầu màu máu. Mai sợ run bắn lên, ôm chặt con vào ḷng, lùi ra. Đêm hôm ấy, Mai không chợp mắt, thao thức tưởng tượng ra cái cảnh Lân quây người hủi đem đốt sống. Sáng ra, Mai nói với d́ Phước «... cho tôi ở lại đây giúp d́ một tay ». D́ ngần ngại cười : « nh́n thấy bệnh tật mà «cô» không hăi à ? ». Mai lắc đầu. D́ làm dấu thánh giá, rồi nói « Giê-su-Ma lạy Chúa, khi nào «cô» không chịu được nữa th́ phải nói ra nhé ...».

Ở trong trại phục dịch được nửa năm, Mai vất vả nhưng lại cảm thấy ḿnh đâm gốc mọc rễ chứ không như thuở trước, cứ lênh đênh dẫu là sống trong nhung lụa ở Kinh Kỳ. Bé Thư nay đă đi chập chững, bập bẹ hỏi mẹ cha đâu. Những lúc đó Mai chỉ tay lên trời bảo con là « cha ở trên cao kia ḱa ! » , ḷng lại gợn lên những ngậm ngùi. Đùng một cái, trại nhốn nháo. Nghe đâu tiền quân Tây Sơn từ Đàng Trong đi đường biển đă vào chiếm lấy Vị Hoàng. Chưa thấy bóng dáng quân bộ, lính nhà Trịnh ở huyện Hưng Nguyên vừa vội tháo chạy, vừa cướp bóc hệt một đàn chó đói vô chủ. Những người cùi hủi bỗng nhiên biến thành nạn nhân của những cuộc chém giết dă man phát xuất từ sự tự ti của những kẻ đào binh hèn nhát. D́ Phước bàn với Mai mang cả trại chạy về phía tây bắc. Đến bờ sông Mă, họ gom góp tiền mua được sáu chiếc thuyền, rồi chặt cây đóng bè, theo triền sông đi ngược lên thượng nguồn.

Thuyền bè cứ thế chống đi hai ngày đêm. Gió đông se sắt đầu tháng chạp trên sông lạnh thấu xương. Trăng thượng tuần đă xế đầu trải một lớp sáng xanh ma quái lên b́a rừng âm u. Thỉnh thoảng, những cặp mắt hươu nai xanh lè, những cặp mắt hổ báo đỏ rực, vàng khè, thấp thoáng ẩn hiện cạnh bụi cây, bờ cỏ. Mai ôm bé Thư, ấp hơi nóng của ḿnh cho con, răng đánh cầm cập. Nàng bỗng nghe tiếng rên, rồi tiếng khóc thút thít. Men đến cuối bè, nàng thấy thằng bé độ nọ đă thét vào mặt ḿnh, nhắc chuyện Đặng Mậu Lân đem thiêu sống không biết bao nhiêu người hủi năm Canh Tư ở ven đô. Nó nh́n Mai, răng nghiến lại, nhưng lạnh quá, lại lập cập đánh vào nhau nghe lách cách. Mai ngồi xuống bên cạnh nó. H́nh ảnh những thân người bốc lửa lên như đuốc, mỡ cháy xèo xèo, mùi thịt nướng, tiếng la hét hăi hùng, tiếng gào thét thất thanh, cùng một lúc ập về làm đầu óc Mai căng ra đong đưa như cái màng nhện mảnh mai trước gió. Mắt Mai cay sè, cổ họng nghèn nghẹn. Nàng cởi chiếc áo bông, đưa cho thằng bé. Nó vẫn run cầm cập. Đặt bé Thư xuống một bên, Mai nằm vào giữa, đắp thêm chiếc chăn rồi một tay ôm con, một tay ôm thằng bé. Ủ hơi nóng thân thể ḿnh vào cái thân thể cùi hủi bệnh hoạn bên cạnh đang run rẩy co quắp, nàng nhắm mắt quên đi những vết ghẻ lở tàn phá, miệng nho nhỏ nói « ... ngủ đi, ngủ đi ! »

*

Thư vất chiếc cuốc vào gốc cây, mồ hôi nhễ nhại, đến với ống nước tu ừng ực. Nh́n lên trời, Thư vui vẻ :

- Sắp Ngọ rồi, chú nghỉ tay đi. Ta bới cơm ăn.

Phạt nốt cho xong đám cỏ tranh, Toàn Nhật lững thững xuống suối rửa tay. Vừa ăn, Thư vừa rủ rỉ kể cho Nhật nghe về cuộc sống gia đ́nh ḿnh. Trốn khỏi Phú Xuân cách đây đâu gần mười năm, Thức trở lại trại Bùi Phong. Sau đó Thức ngược ḍng sông Mă đi t́m mẹ con Mai. Thư gặp cha lúc đă lên mười, vẫn c̣n nhớ cảnh mẹ ḿnh cuống quít lên gọi tên cha rồi ngă bất tỉnh. Từ đấy, cuộc sống an vui cho đến ngày Thức nhận được tin đến từ Pháp qua một linh mục ghé thăm giáo phận Tây Đang Ngoài. Người bạn Thức rất quí là hầu tước Condorcet - kẻ đă cưu mang và giúp Thức từ Paris trở về nước - nghe đâu bị chém cổ. Một số những người lănh đạo Cách Mạng Pháp cũng lần lượt lên đoạn đầu đài. Nước Pháp hỗn loạn rồi từng bước được ổn định dưới thời Tam đầu chế, nhưng bao nhiêu lư tưởng xă hội Cách Mạng cứ dần dần tiêu vong. Sáu bảy năm trở về đây, Thức trở nên thầm lặng, có khi cả ngày không mở miệng. Nhiều hôm, th́nh ĺnh Thức nói một ḿnh cả buổi bằng tiếng Pha-Lang-Sa. Mẹ-bề trên đến lắng nghe ở cửa, lắc đầu không hiểu ǵ. Từ ngày nghe tin Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân, Thức thỉnh thoảng nổi cơn lên đập phá, miệng quát « ... thế th́ c̣n hy vọng ǵ ! ». Sau thời gian đó, hễ có dịp là Thức lại dọ hỏi t́m tin tức của Toàn Nhật.

Nh́n ra xa, Thư cười :

- ... mà chú th́ như cánh nhạn đầu trời cuối bể. Lạy Chúa tôi, mẹ cháu cầu xin với Đức Mẹ măi, cho đến ngày biết rằng chú về Thăng Long là bố cháu đ̣i lên đường đi gặp chú ngay.

Toàn Nhật nhắm mắt, hồi tưởng lại ngày ḿnh bỏ Qui Nhơn, ôm xác Chúa Út chạy một mạch vào rừng cho đến lúc chân nhũn ra khuỵu xuống. Khi Nhật tỉnh lại, Nhật thấy cặp mắt một nhà sư hiền lành nh́n ḿnh, không nói, không hỏi, thản nhiên như chẳng có chuyện ǵ. Nhật bật khóc hu hu. Nhà sư ngồi yên, vẫn nh́n hiền dịu.

Đợi Nhật khóc xong, nhà sư hỏi trống không : « ... đỡ khổ chưa ? ». Chẳng đợi trả lời, nhà sư đứng dậy lấy một cây thuổng ra lặng lẽ đào huyệt. Cởi bộ áo giáp vơ quan ra bọc lấy xác Chúa Út, Nhật ôm đặt vào ḷng huyệt, quơ tay vun đất. Nhà sư giọng đều đều, tụng kinh cầu siêu trong tiếng khóc rấm rứt của Nhật. Một lúc sau, nhà sư lên tiếng: « ... vợ của thí chủ? ». Nhật lắc đầu. « Vậy sao lại khóc thảm thiết thế ? ». Nhật nh́n nhà sư, không biết nói ǵ, gật đầu. « ... Đỡ khổ chưa ? ». Nhật lại lắc đầu. Nhà sư đứng dậy vừa đi vừa hỏi : « Có muốn dứt được khổ không ? ».

Nhật bước theo, từ đó trở thành vị pháp tự truyền đăng thứ hai mươi hai của Diệu Nguyên thiền sư. Sau hai năm tu tập cạnh thầy, Nhật xuống núi đi hoằng pháp. Nay đây mai đó đă mười lăm lần xuân về rồi lại xuân lại đi, lấy gió trăng làm bầu bạn, thiên hạ làm anh em, và đất trời làm nhà cửa, Nhật chẳng đậu ở chùa chiền nào hơn dăm ba tháng.

Thư tưởng Toàn Nhật ngủ, định đứng lên, bỗng nghe hỏi về quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa - Latinh ngày xưa Thức đă bỏ công ra tu sửa. Thư đáp :

- ... quyển ấy th́ xong lâu rồi, cháu không nghe thấy cha cháu nhắc. Từ ngày ở trại đây, cha cháu soạn quyển từ điển Pha-Lang-Sa -Việt - Pha-Lang-Sa. Riêng phần cháu, cha cháu bảo cháu dịch quyển « Về tinh thần luật pháp » của Montesquieu và quyển « Công ước Xă hội » của Rousseau, mười phần nay đă được bảy.

Nhật trầm ngâm :

- ... c̣n cha cháu cặm cụi viết lách cả ngày, chắc cháu biết viết ǵ chứ ?

- Vâng, cha cháu đang hoàn thành một trước tác gọi là « Tề Nhân Thế Đạo », chỉ thỉnh thoảng mới nói đến với mẹ cháu. Cha cháu thảo ra cả mấy thếp giấy, nhưng cháu chưa được đọc ...

- Sao lại « Tề Nhân » ? Con người như nhau, bằng nhau là thế nào ?

Thư lắc đầu :

- Chú phải hỏi cha cháu - Thư cười - Ngày rộng tháng dài, chắc cha cháu chỉ đợi chú hỏi là nói. Mấy năm nay cha cháu có nói được với ai đâu.

Chợt có tiếng chân người bước lại. Mẹ- bề trên cùng Mai bước lại, miệng tươi cười :

- Thầy vất vả, làm chúng tôi không yên tâm. Lên đây xin thầy giúp cho một việc. Trong trại chúng tôi, vừa có con chiên của Chúa, lại cũng vừa có người bên lương. Người lương vẫn theo đạo Phật, nhưng cho đến nay không có duyên được gặp một nhà sư nào viếng thăm. Run rủi thế nào mà có thầy ở đây, vậy tôi xin thầy gặp họ giúp họ tu tiến phần tâm linh ... Nếu được như thế th́ quí hóa lắm !

Nhật ngạc nhiên đứng sững người ra. Bỗng dưng, những lời đồn đại về sự hẹp ḥi của người bên giáo không có cánh mà bay tuyệt tăm hơi. Trước mắt, Nhật chỉ thấy một người đàn bà độ lượng mỉm cười chờ câu trả lời. Chắp tay, cúi đầu, Nhật vui vẻ :

- A di đà Phật, kẻ tu hành này xin hết sức ḿnh.

*

Một trong ba gian nhà dùng làm thư pḥng, là nơi Trọng Thức viết lách sau công việc ở trại hủi. Sau khi Mai và Thư cầu kinh rồi đi ngủ, Thức pha nước, nhắc Nhật kỷ niệm vào trà thất uống tràvới Koji ở Phố Hiến đă gần hai mươi năm trước. Tiếng thác đổ sau nhà nhặt khoan như ru như hát trong âm thanh rủ rỉ của muôn vàn loài côn trùng ḥa tấu đón buổi đông về. Đêm co lại dưới những cơn gió bấc lạnh lùng. Khêu đèn lên, Thức lẳng lặng rót nước vào ấm trà nhỏ bằng nắm tay. Đợi một lát, Thức đổ sang chén tống, sau đó san trà qua chén con đưa cho Nhật. Hai tay đỡ lấy, Nhật nhắp uống, mũi phập phồng hít hương trà ngan ngát xông lên. Nghe Nhật hỏi, Thức chậm rải :

- Thế nào là Tề Nhân ư ? Con người ta dĩ nhiên là khác nhau. Từ trong bụng mẹ, cái bào thai đă có cái mạnh, cái yếu, cái khôn, cái dại. Sinh ra, có đứa sinh trong nhung lụa ngọc ngà, có đứa mới vào đời đă chịu ngay sốù phận cơ cực cùng với cha mẹ ḿnh. Mạnh, yếu, khôn, dại phát triển trong những điều kiện dị biệt, ắt chúng lớn lên, lại càng khác nhau. Nhà nghèo th́ chết non, thất học, sau làm thân tôi mọi để có mà ăn. Nhà giàu, ngược lại, bệnh th́ có thuốc, được học hành, rồi sau thi cử đỗ đạt, thành quan thành tướng, tự xưng ḿnh là phụ mẫu, cha mẹ bàn dân để đè đầu cưỡi cổ. Ngẫm cho cùng, xă hội phân hóa như vậy thành những đẳng cấp. Nếu cứ thế, những đẳng cấp đó tiếp tục tồn tại, bất dịch, cho nên đại thể « con vua th́ lại làm vua ...».

- Nhưng phải chăng thân mệnh khác nhau là từ đấng Hóa Công mà ra ? Nhật ngắt lời - Cái bào thai trong bụng mẹ có là từ duyên nghiệp ...

Thức khẽ giơ tay, chặn ngang :

- ... Khoan vào ṿng siêu h́nh vội. Này nhé : mẹ cái bào thai cũng từng đă là một bào thai, nó có mẹ nó, rồi mẹ nó cũng từng đă là một cái bào thai. Cứ thế đi ngược lên, số người ít dần, cho đến khi có đúng một cặp đàn ông đàn bà thuở nguyên thủy. Con cái họ chắc là cũng khác nhau. Nhưng khác bao nhiêu ? Hẳn là phần dị biệt nếu có không thể có nhiều như xă hội bây giờ. Đám con cái đó cùng một giống di truyền, sinh hoạt trong cùng một điều kiện vật chất lẫn tinh thần, dẫu có phát triển khác nhau th́ sự khác biệt trên cùng một cơ sở vẫn ít hơn là sự khác biệt trên những cơ sở đối chọi nhau như giàu nghèo chẳng hạn. Từ Hóa Công sinh ra ở lúc khởi đầu, con người gần như nhau, gần b́nh đẳng như nhau, đó là lẽ Tề Nhân từ nguyên thủy.

Về sau, con người tổ chức thành xă hội với nhau, tạo ra thế sự bằng luật lệ, tư tưởng, chính trị của ḿnh th́ mỗi ngày con người một khác nhau, phân chia ra, đối kháng, đàn áp nhau, đi ngược hẳn lại sự b́nh đẳng nguyên thủy. Thế sự là do người, không phải do Hóa Công. Vậy, có thể quan niệm một thế sự nào đó có khả năng trả lại và thể hiện ư thức công b́nh không ? Đó là vấn đề đặt ra trong « Tề Nhân Thế đạo » ... Chữ « Thế » là hàm ư đó.

- Theo lẽ biến dịch, người ta phát triển tiến hóa không thể cứ như nhau. Dị biệt là tất yếu. Vậy công b́nh là ư niệm không loại bỏ, thậm chí phải chấp nhận tính dị biệt - Nhật điềm tĩnh hỏi - Thế th́ công b́nh cho đồng loạt chúng sinh là thế nào ?

- Công nghĩa là chung, vậy ư thức công b́nh là một ư thức chung về sự b́nh đẳng đặt ra như một ước lệ được mọi người chấp nhận. Ước lệ đó tự thân là một Công ước: nó dựa trên ư chí của mỗi con người tự do nhận ḿnh là một thành viên xă hội. Nó là ư chí phổ quát trên cái chung, tức là trên phạm trù xă hội. Xă hội đó, mỗi người ở vị thế tư riêng có hoàn toàn tự do trong sự chọn lựa tự ràng buộc ḿnh vào người khác qua cái Công ước nói trên. Chính cái Công ước là nền tảng của ư thức công b́nh được xác định.

- ...

- Trước hết, mỗi người khi sinh ra đă có một số quyền căn bản không ai xâm phạm được. Bất luận sang hèn, giàu nghèo, trai gái, lương giáo, họ đều tự do và b́nh đẳng về quyền hạn trước pháp luật. Một số quyền cơ bản là quyền được sống, quyền tự chủ, quyền bất khả xâm phạm về tinh thần cũng như thể xác ... Để phát huy tính công b́nh xă hội, lại phải khẳng định thêm một số thứ quyền cho tất cả mọi người như quyền đi học, quyền có công ăn việc làm, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, quyền chuyển hoán bổ nhiệm những kẻ được cử ra quản lư guồng máy xă hội ...

Thức chậm răi, nói như th́ thầm :

- Công ước xác minh những quyền hạn ấy làm khung cho luật pháp. Làm sao biết đó là từ ư bàn dân và do chính bàn dân định ?

Đưa tay lên bóp trán, Thức im lặng một lúc lâu. Uống xong chén trà, Thức từ tốn tiếp :

- Làm sao ư ? Phải nghĩ ra cái cơ chế để thể hiện ư bàn dân hầu có một xă hội mà luật lệ ràng buộc là do dân định. Nhưng dân đông, lại ở rải rác khắp nơi. Hội ư dân bằng cách nào ? Có người, như Emmanuel Sieyès, cho rằng bàn dân có thể cử người đại biểu, rồi những người đại biểu này họp nhau lại soạn ra và tu chính công ước từng bước một. Có người chống lại, như học giả Rousseau, không chấp nhận nguyên tắc đại biểu, đ̣i hỏi một nền dân chủ trực tiếp. Nhưng dẫu có hội ư được mà rồi mỗi người một phách th́ làm sao ? Bàn dân có thể hợp lại thành những tập đoàn đảng phái để gây ảnh hưởng lớn hơn so với mỗi cá nhân lẻ tẻ. V́ thế, cái đề nghị một nền dân chủ trực tiếp cũng vẫn dẫn đến có kẻ lợi người hại, kẻ theo người chống, và khả năng họ tập hợp với nhau ... C̣n chấp nhận nguyên tắc đại biểu ? Điều này có nghĩa là chấp nhận những tiểu tập đoàn, và chính vậy mà cũng đưa đến cùng một hệ quả tương tự với nền dân chủ trực tiếp !

Thức đứng dậy ra đứng cạnh cửa sổ. Sương núi buông xuống mờ mịt như vây hăm thế gian trong ṿng đen đặc của kiếp phù sinh. Đóng cửa xong, Thức quay vào ngồi, tiếp :

- Người bạn quá cố ta là Condorcet cũng mang vấn đề này ra bàn trên mặt lư học.

Trầm ngâm, tay chấm vào chén nước trà, Thức vẽ lăng quăng lên mặt bàn, rồi chậm răi :

- Chẳng hạn như bầu người đại biểu dựa trên sự chọn lựa của mỗi cá nhân hợp với nhau thành một tập thể. Giả dụ có ba người, ông A, B hay C để chọn. Giả dụ ba người đó có quyền bầu. Sự chọn lựa của tập thể ba người đó phải thế nào ? Lại giả dụ rằng người thứ nhất ít nhất là thích ông A hơn ông B; ông B hơn ông C. Người thứ nh́, ông B hơn ông C, ông C hơn ông A; và người thứ ba, ông C hơn ông A, ông A hơn ông B. Trong thứ tự chọn lựa đó, nếu ta để ba người đi bầu hoàn toàn b́nh đẳng, nghĩa là không ai có cái quyền độc đoán áp đặt cách xếp hạng của ḿnh lên tập thể ba người, th́ A hay B, hay C hoàn toàn tương đương. Vậy sự chọn lựa tập thể trong trường hợp này là không xác định được ! Dĩ nhiên, thí dụ này là một thí dụ đặc thù chỉ nhằm biểu trưng sự khó khăn tạo ra cơ chế chọn lựa hợp lư của một tập thể.

Nhưng không phải xă hội nào cũng rơi vào cái trường hợp trên để biện minh cho sự độc đoán độc tôn. Môät xă hội chấp nhận sự độc đoán độc tôn của ông A chẳng hạn, xếp ông ta lên trước nắm quyền, tô vẽ nó như thiên mệnh theo kiểu quân chủ phong kiến. Ép cả thiên hạ phải tuân mệnh, công nhận sự sắp xếp đó vô thời hạn là việc không thể làm măi được. Sớm muộn cũng có người dặt lại câu hỏi, thậm chí chống lại. Nhưng nếu chống lại sự độc tôn độc đoán ở xă hội này, th́ chỉ có một cách là nổi loạn ... Đấy, đất nước ta là như vậy đấy. Mấy trăm năm rồi, giặc dă liên miên v́ thế ...

Nhật ngửng đầu nh́n lên những chiếc kèo ngang dọc trên trần nhà, lẳng lặng nghe tiếp hệ tư tưởng Thức dày công đặt từng viên gạch xây nền đắp móng. Uống một ngụm trà, Thức gơ nhẹ lên mặt bàn, rồi trầm giọng :

- Gạt tạm sang một bên cái thực tế nước ta, hăy tiếp tục xét mặt lư của vấn đề tổ chức quyền lực một cách tổng quát. Trở về thí dụ trước, và cứ ba người bầu ra một để đại biểu cho hai người kia. Người thứ nhất là ông A, thứ hai là ông B, thứ ba là ông C. Bây giờ, giả thử chọn A, dĩ nhiên, người thứ hai xếp B trên C, C trên A là kẻ bất đạt nhất. Vậy nếu chọn lựa có định kỳ th́ sau khi A là đại biểu, ta chọn B. Cứ thế, sau B th́ chọn C, sau C th́ lại chọn A. Đúng một ṿng luân chuyển đại biểu, tính công b́nh được tái tạo lại. Rút cục, quyền lực đại biểu phải luân hoán ở trong một cơ chế trong đó đa nguyên được bảo đảm th́ tính công b́nh xă hội mới khả thi. Nếu không, công b́nh chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch ...

Thức lại im lặng, tay đốt đóm châm vào chiếc điếu cầy, rít ṣng sọc. Những sợi tóc bạc rối bù như đang nổi loạn trên mái đầu Thức, trắng toát, cô đơn, ngạo nghễ chổng ngược lên trời. Thức lẩm nhẩm nói một ḿnh :

- Ở mức độ trừu tượng vừa đề cập, bài toán chọn lựa tập thể đă khó. Vào thực tế, lại càng khúc mắc. Tập thể bắt đầu là gia đ́nh. Lúc ấy, sự chọn lựa là ăn chung, ngủ chung, nuôi con dạy cái. Sau gia đ́nh là thôn xóm, rồi làng xă. Sau làng xă là tổng, là huyện, là tỉnh rồi đến trấn, đến vùng cho đến cả nước. Ở mỗi mức, sự chọn lựa tập thể lại khác. Làng có việc làng, tỉnh có việc tỉnh. Nước có việc nước. Làm sao để trong mọi việc, từ việc làng xă đến việc đất nước, mỗi người đều có một tiếng nói b́nh đẳng với mọi người ? Cái cơ chế đó phải được định đoạt thế nào trong Công ước ? - Thức ngừng nói, rồi mơ mộng - một mẫu h́nh Công ước có cơ cấu chồng chất lên nhau, sắp xếp trong nhau như dạng một bài toán đố.

Ngập ngừng, vết sẹo đâm xuống chân mày giựt lên, Thức thầm th́ như chỉ để cho ḿnh nghe :

- ... Một bài toán đố ta vẫn chưa giải được .

*

Thư đến t́m Nhật vào buổi xế chiều, vừa đúng lúc Nhật làm xong nghi thức tụng niệm cầu an cho Phật tử trong trại hủi. Với những con người mà thể xác bị đày đọa cùng cực, phần tâm linh tự nhiên trở thành cái phao cứu độ trong ḍng nước trầm phù của cuộc sống. Luận về luân hồi mở ra cho họ con đường chấp chế khổ đau, thôi oán thán, mở tâm thức đón nhận từng ngày từng giờ niềm an lạc ở trong điều kiện của họ. Niết bàn ở ngay đây, và Phật là chính trong ta, sao hoài công kiếm ǵ ở những đâu xa, như kẻ trên thuyền trôi đi mà vẫn lao tâm khổ trí nh́n trời hỏi t́m ra nước ?

Hai chú cháu thư thả xuống dốc về nhà, vừa đi vừa đợi Mai c̣n bận bịu chút việc. Nhật điềm đạm :

- Cháu ạ, bố cháu lao tâm vào cái việc viết Tề Nhân Thế đạo, vận trí t́m cho xă hội một phương thức điều hành dựa trên công b́nh bác ái. Nếu thành, th́ con người ta sẽ sống với nhau yên vui hài ḥa hơn, thôi ức hiếp, cướp bóc lẫn nhau, và hẳn sẽ bớt giặc dă chiến chinh ... A di đà Phật, cái tâm lớn thế, chú cầu xin cho bố cháu đủ trí lực để hoàn thành măn mỹ cái quan niệm xă hội cộng ḥa đó cho thế nhân... Nhưng chú ngại v́ thế nhân trong tư tưởng của bố cháu khác xa với người đời trong thực tế...

Nhật tiếp, giọng trầm xuống như nói cho chính ḿnh nghe :

- Người đời xử thế không hẳn thuần lư. Cho nên dẫu sự công b́nh và ḷng bác ái đến từ lư lẽ, nó chưa đủ là mẫu mực cho hành vi con người, vốn c̣n bị chi phối bởi hỉ nộ ái ố lạc dục. Hành vi đó phát xuất từ lục căn, ngũ uẩn nên tham - sân - si làm bức màn vô minh ngăn sự tỉnh thức.

Thư xen vào, giọng đầy phấn khởi :

- Cũng chính v́ thế mà giáo dục là một thứ quyền hạn cơ bản cho mỗi con người. Có biết, làm mới tốt. Làm tốt dân sẽ giàu. Dân giàu, nước phải mạnh. Lẽ tư riêng và lợi ích chung dựa vào nhau, không có cái nọ là chẳng có cái kia ...

Nhật mỉm cười, nhớ rằng việc Thư nhận là cứ mỗi tuần dạy ba buổi học cho những người cùi hủi trong trại. A, cái tuổi trẻ kỳ diệu, như trồi cây non t́m ánh sáng mặt trời, nhú ra và vươn lên như lẽ tất nhiên. Dịu giọng, chàng hỏi :

- Nhưng c̣n cái quyền hạn tự do. Giả thử có một người không chịu sự giáo dục, cháu làm thế nào? Bắt người ta đi học à?

- Vâng. Quyền hạn đi đôi với bổn phận. Cái học để biết, biết để không nhiễu người khác, là bổn phận. Pháp luật nhằm bảo vệ lẽ chung khi cái riêng tư của mỗi con người đối chọi lại nó. Tự do cá nhân ngừng ở ngưỡng cửa quyền lợi của tha nhân. Kẻ canh cửa là pháp luật định trong Công ước.

Nhớ buổi nói chuyện tối qua, Nhật nhủ thầm rằng Thư chắc hẳn chưa rơ hết vấn đề thuần lư khúc mắc để xác định ra cái Công ước kia đang dày ṿ Trọng Thức. Chàng bỗng rùng ḿnh. Một nỗi sợ ùa đến. Sợ những khẳng định cực đoan về cái cơ chế chi phối nhân và thế. Sợ những nề nếp con người đặt ra để trói buộc con người trong cách tư duy giản lược rút về một mối. Ngừng chân, Nhật nh́n vào mắt Thư, hỏi :

- Dạy người, cháu dạy đọc, dạy viết, dạy nghĩa lư, dạy trồng trọt ... Cháu có dạy họ yêu thương được không ?

Thư lạc quan, nhanh nhảu đáp :

- Thưa được ! Yêu người rút cục là một cách yêu ḿnh. Đắc nhân tất đắc kỷ.

- Tất cả là do vị kỷ mà ra ?

Ngần ngừ, Thư gật đầu. Nhật trầm giọng :

- Chú nghe Mẹ-bề trên giảng : « Chúa Giê-Su dạy : Ta không bảo các người chỉ yêu cha, mẹ, anh em, vợ con. Ta bảo các người hăy yêu lấy kẻ thù của các người. Hăy thi ân, cho vay mượn cho dù không có báo đền. Các người sẽ là những người con của Đấng Tối Cao, v́ người nhân lành với những kẻ vô ơn độc ác. Các người hăy biết thương xót, như Cha các người là Đấng thương xót ».

Thư lặng im. Nhật đẩy cửa vào nhà đi rửa tay, ḷng bâng khuâng. Một lát sau, Mai cũng về, miệng nói :

- Không hiểu sao cứ máy mắt.

Ánh nắng tà giữa mùa đông nhuộm cây cỏ một màu vàng pha sắc tái trông như nước da người sốt rét. Thư lúi húi nhóm lửa trong bếp, xuưt xoa kêu lạnh. Bỗng nhiên, Mai thét lên. Nhật chạy vội vào chái nhà bên cạnh. Mặt tái nhợt, Mai không nói được, tay quơ quơ một tờ giấy, rồi ngă chúi xuống chân giường. Thư cũng vội vă chạy vào đỡ lấy mẹ. Nhật đưa tay lấy tờ giấy. Nh́n nét chữ của Thức, mực chắc vừa khô, Nhật thảng thốt. Không nói không rằng, Toàn Nhật bung cửa chạy sổ ra ngoài. Như một vết khói màu xám khổ hạnh, chàng thoắt biến thoắt hiện trong rừng cây xào xạc gió.

Cứ thế, Toàn Nhật chạy lên núi, theo con đường chàng đă nhiều lần đi dạo với Trọng Thức, như bị hút tới phía trước bằng một sức kéo vô h́nh. Manh áo sồng bay về đằng sau như cánh chim giạt gió, chàng co chân sải như hươu nai, đầu óc tê liệt đến trống không, mặc cho linh tính dẫn dắt. Nhật chạy, cứ chạy, rồi bỗng nhận được ra một cái cây bị chặt cành, nhựa ứa trắng chỗ dao chém. Thêm vài bước, lại một cái cây khác cũng hệt như vậy. Theo những thân cây có vết chém, Nhật tiếp tục chạy, mũi bỗng ngửi thấy mùi củi đốt. Chàng bỗng chột dạ. Phải thế chăng ? Theo mùi củi cháy, Nhật leo lên. Trên cao, trong tầm mắt Nhật, khói bay lên lững lờ rồi loăng dần, tan biến trong cơn gió bần bật. Lúc này, Nhật không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, trống ngực đánh như muốn phá bung cơ thể, tim nhói lên một niềm đau đớn xé ruột xé gan. Rẽ vào khúc ngoặt dẫn lên đỉnh núi, một con chim bàng ở đâu xổ ra, bay lên, rồi lượn ṿng trên đầu. Mùi củi đốt nồng hơn. Đến chỗ chàng thường ngồi tṛ chuyện với Thức những ngày vừa qua, Nhật ngừng chạy, nh́n chằm chặp vào mỏm đá cao quay ra phía cuối sông. Cạnh đấy, những nhành cây đă cháy thành than vẫn c̣n bừng đỏ lách tách nổ . Nhật hiểu.

Thức đă hóa thân thành đống tro tàn nằm kia, lặng lẽ không một lời, đón Nhật từ nay cho đến măi măi sau này bằng cách trả lại tịnh không cái nín im ở phút giây đầu tiên tạo thiên lập địa.

Nhật hổn hển, chúi chân xuống đất, miệng mặn chát, chẳng hiểu là v́ mồ hôi hay v́ nước mắt. Gió, lại gió. Cứ từng cơn thốc tháo vào cơi nhân gian. Bụi, lại bụi. Ta cũng là cát bụi. Bụi mịt mù xoáy tṛn một cơn lốc phù sinh. Nhật qú xuống xếp chân tọa thiền, nhập vào cơi không, miệng niệm :

« Sắc bất dị không, không bất dị sắc .....

Sắc chẳng khác không, không chẳêng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế....Tướng không của vạn pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên không có sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức...»

Như một ḥn giả sơn, Nhật bất động, mặt hướng về mỏm đá nơi Trọng Thức đă chặt cây xếp củi, sửa soạn lưu huỳnh và diêm sinh rồi tự ḿnh châm lửa, cháy bùng lên như một ngọn đuốc cô đơn trên đỉnh núi cao. Con chim bàng vẫn lượn đi lượn lại thảng thốt kêu tiếng kêu thương. Nắng đă tắt trên đầu những cḥm cây lặng lẽ. Sương muối thấp thoáng ẩn hiện dần dà bốc lên lơ lửng. Thinh không bỗng nhầu nát quặn ḿnh qua tiếng hát giọng đàn bà kéo dài dằng dặc. Hát rằng :

Anh nằm xuống

sau một lần, đă đến đây

đă bay cao trong bầu trời này

đă đi xa trong cuộc đời này ...

Rồi nằm xuống

không nói năng

không tiếng tăm....

Như giọt nước kia, về cội nguồn.

Như áng mây xa, quay lại nhà,

rồi nằm xuống

trong tiếng ru người, đến từ thinh không...

Mở mắt ra, Nhật thấy Mai ḿnh dựa vào gốc cây, miệng hát, tay giơ cao lên trời, mặt chan ḥa nước mắt, không biết đă đến mỏm đá này từ lúc nào. Thư hai tay ôm vai mẹ, miệng mím chặt, mặt căm lại như khắc vào đá.

Gió, lại gió. Cơn gió bần bật thổi tung đống tàn than đang cháy, thổi những tàn tro c̣n đốm lửa bốc lên cao, kết thành những bông hoa rực đỏ bay tản ra, tắt dần, rắc trên sông Mă chút bụi xót lại của một cuộc đời. Từ tro bụi mà ra, sẽ rồi lại trở về với tro bụi. Sống ở, chết về. Trên bước về, dấu vết mà làm chi ? Danh vọng mà làm ǵ ? Phú quí ư, rồi cũng đến thế ! Sự nghiệp ư, có hơn chi một cơn gió giữa bao la.

Thư lên tiếng đọc kinh. Mai ngưng hát, đọc theo :

« Con lậy Chúa con, con ở dưới vực sâu kêu lên Chúa con, xin Chúa con hăy thẩm nhận lời con kêu van: hăy lắng nghe tiếng con cầu xin. Nếu Chúa con chấp tội, nào ai được rỗi bởi Chúa con hằng có ḷng lành cùng v́ lời Chúa con phán hứa. Con đă trông cậy Chúa con. Linh hồn con cậy v́ lời hứa ấy, v́ đă trông cậy Chúa con...Lậy Chúa con ! xin ban cho linh hồn chồng con được nghỉ ngơi đời đời và được sáng soi vô cùng »

Trời tối dần. Thư d́u mẹ đến cạnh, tay đưa cho Nhật một bọc vải có buộc phong thư. Nhật dịu dàng nh́n Thư, nh́n Mai, đỡ lấy rồi đứng lên. Chàng khẽ nắm lấy bàn tay Mai vẫn run run như một cánh chim non ĺa tổ. Gió, lại gió. Đám tro tàn lại bốc lên bay về phía sông Mă đang gầm gừ khúc biệt hành. Trong vũ trụ này, thực ra vật chất bất sinh, bất diệt. Những tàn tro nay không c̣n đốm lửa nào, dẫu có xóa chỉ xóa đi h́nh hài, nhưng hẳn giữ Thức nguyên lành trong bao la.

*

Phong thư của Thức gửi Nhật vẻn vẹn :

« ... duyên anh em ḿnh có vậy, đến lúc cuối c̣n gặp được nhau là đă thỏa ḷng ta. Nhờ Nhật chu toàn cho mấy việc. Thứ nhất là lên Bùi Phong tạ từ thầy hộ cho ta. Thứ nh́, giúp cho chị và cháu về giáo phận Bùi Chu. Nguyễn Ánh hàm ơn giám mục Bá đa Lọâc chắc không hại đến giáo hữu ở đấy, hẳn chị và cháu đặng an b́nh. Dặn Quốc Thư rằng chỉ đến đời vua sau, tất nếp cũ lập lại, người giáo phải lo trước để cẩn thận giữ ǵn. Thứ ba, ta gửi phiến đá Băng Vân và sách Tề Nhân Thế đạo. Sách chỉ một ḿnh Nhật được mở ra, xong rồi đem cả đá lẫn sách chôn vào huyệt tổ họ Hà trên bờ sông Mê thuộc bản Mê Hạ, dưới giặng Giăng Màn, từ Bùi Phong đến mất ba ngày đường. Thứ tư, xin dặn lại rằng ai nhớ ta, hăy hăy ném một cánh hoa xuống ḍng sông Mă là đủ đẹp. Khi ném, chớ quên nhắc ta « đừng lấy trí nhân ra mà kiêu mạn ! » là đủ t́nh. Trí nhân dẫu cần, nhưng không đủ để con người đạt hạnh phúc. Cái cần, cả đời ta, ta cũng chưa đạt, nói chi đến đủ. V́ vậy, ta đành khất nợ kiếp này, cúi lạy chư vị Chúa, Phật, Thánh thần trên trời, cùng lạy toàn thể chúng sinh trên trái đất này mà ta hằng yêu quí. »

Nhật thẫn thờ, đọc đi đọc lại. Ở gian bên, Thư trằn trọc sột soạt đi đi lại lại. Nhật khêu đèn, tay mở bọc vải Thức trao lại. Quyển sách được bọc kỹ càng trong giấy có thoa sáp chống nước, để dưới một phiến đá to bằng nắm tay. Nhật cầm ḥn đá lên. Nó lạnh một cách không ai tưởng tượng ra nổi, ánh lên mầu xanh nhờn nhợt như mặt mũi người thiếu máu. Thắp hương, Nhật th́ thầm khấn rồi mở bọc giấy. Quyển sách gáy da xông lên mũi một mùi hương âm ẩm. Trang đầu, tựa đề Tề Nhân Thế Đạo viết theo kiểu đại tự bằng son, nét có đôi phần ẻo lả chứ không rắn rỏi chắc chắn như nét chữ của Thức. Nhật hồi hộp. Nhớ lại những buổi luận bàn với Thức, Nhật chắc rằng những ḍng chữ trong mấy chục trang sau là những công thức gom hết trí lực một đời người bỏ ra để t́m kiếm những cơ chế an sinh và công b́nh xă hội, điều kiện Thức cho là cần để mỗi người trong đó đạt được hạnh phúc. Nhật giở trang sau, rồi trang sau nữa. Mắt trợn lên, môi run bần bật, cứ thế Nhật vội vă giở cho đến trang cuối cùng. Trong nước mắt nhạt nḥa, chỉ vỏn vẹn đúng bốn chữ đú đởn, nhẩy múa với nhau :

« TỀ NHÂN THẾ ĐẠO »


*

Đưa quang gánh xuống con thuyền đang dập dềnh quay quanh sợi chăo neo vào chiếc cầu gỗ ven bến, Nhật lại chạy lên đón lấy hai tay nải Mai khệ nệ tay xách nách ôm. Ở đầu dốc, Thư ngả người về phía sau, tay gh́m đ̣n xuống giữ thăng bằng, chân từng bước đi xuống. Nhà thuyền ḥ lên : « Mau lên, nước lên rồi ! » Mai ngửng đầu nh́n. Bên kia, mặt trời đă ló ra khỏi mỏm núi. Trời xanh vắt điểm dăm ba đám mây nhè nhẹ trôi dài ra kéo thành những sợi trắng dần dần mất hút vào tít tắp xa xôi. Khi Thư xuống đến bến th́ có tiếng gọi. Mẹ-bề trên cùng hai ba người phụ việc trại tất tả xuống dốc :

- Đừng đi đâu mà vội ... Đợi chúng tôi một tí nhé !

Đến ven bến, Mẹ chạy đến, đưa hai tay nắm lấy tay Mai, vừa lắc vừa nói :

- Khổ thân, chúng tôi đến giúp gồng gánh th́ đă đi cả rồi ...

Lấy tay lau vệt mồ hôi trên thái dương Mai, Mẹ xuưt xoa :

- Đi đường xa, c̣n là mệt - Quay nh́n nhà đ̣, mẹ tiếp - thư thư cho nhé, ngày rộng tháng dài mà.

Quay sang nắm lấy tay Thư, Mẹ nh́n Toàn Nhật :

- Xin Chúa ban phúc lành. Dịp tiễn thầy, tôi lại xin mời. Bao giờ thầy lên được trại th́ xin cứ lên. Thầy chăn dắt chính quả chính giác giúp người trên trại chúng tôi th́ chúng tôi đội ơn vô cùng ...

- A di đà Phật.

Mai nh́n quanh. Nàng biết là những người cùi hủi trong trại không ra bến v́ có lệnh cấm họ gần gũi người lành lặn. Thật ra, chẳng cấm họ cũng tránh để khỏi lại ngậm ngùi về thân phận ḿnh. Mai nh́n Mẹ-bề trên, búi tóc bạc x̣a ra dưới chiếc mũ rộng vành, nước mắt rưng rưng. Mẹ-bề trên lắp bắp :

- Cấm d́ khóc. D́ khóc tôi cũng khóc. Già mà khóc người ta cười cho ...

Mắt đă đỏ hoe, Mai ôm lấy Mẹ bề trên, nói nhỏ :

- Mẹ chào tất cả anh chị em trong trại hộ con. Rồi con cũng sẽ về thăm. Ơn Chúa, thế nào con cũng về.

Mai quay sang các d́ phụ việc trại, nắm lấy tay từng người, cổ họng tắc lại. Có d́ khóc rưng rức, có d́ cứ níu chặt tay, không chịu bỏ ra, Mẹ-bề trên phải gượng mắng bằng giọng yếu ớt cũng đă chớm vị mặn của nước mắt.

Nhà thuyền chống sào đẩy ra, theo triền sông xuôi xuống. Trên bờ, Mẹ-bề trên lại tất tả leo lên dốc. Thuyền đi được vài trăm sải, Nhật vỗ nhẹ vào Mai rồi đưa tay chỉ. B́a rừng dọc ven sông, thấp thoáng bóng người. Nh́n kỹ, có cả bóng áo chùng xám của Mẹ-bề trên, của các d́. Vang lên trong không trung lời câu kinh của hàng trăm người cùi hủi đă bỏ trại kéo nhau ra :

« ... Lậy ơn Đức Chúa Blời, xin ban b́nh an trong đời chúng tôi, v́ đừng kể một chúa tôi, chẳng ai cứu giúp bênh vực chúng tôi...Chúng tôi cầu xin cùng Đức Chúa Blời là Đấng hay ban ḷng muốn thanh sạch, trí luận ngay chính cùng sức làm việc công b́nh, xin rủ ḷng thương ban cho chúng tôi được sự b́nh an thế gian chẳng thể ban được...»

Nh́n xuống mặt sông, muôn vàn cánh hoa dại màu vàng được thả trôi theo ḍng nước lờ lững trôi, trôi đến cho Trọng Thức, trôi xa để sang một thế giới nào đó, có thực đấy, nhưng nào ai hay biết. Mai nắm tay con, nước mắt chan ḥa. Hai mẹ con đọc theo :

«...th́ ḷng chúng tôi mới dễ chiều về đàng lành mà giữ cho nên các điều Chúa tôi răn dạy. Chúng tôi xin bấy nhiêu sự v́ Đức Chúa Giê-Su Kirixitô là Chúa chúng tôi. Amen »

Nhật dơi mắt nh́n. Người trong trại đưa bàn tay cụt ngón lên vẫy. Họ kẹp những chiếc khăn trắng lắc qua lắc lại, thả hoa vàng xuống nước, đọc kinh xong lại cùng nhau hát những bản Thánh ca. Giọng họ cao vút lên đến đỉnh trời, xa đến tận cuối đất,

chở đi niềm ước vọng dầu thế nào cũng không bao giờ mất được trong mỗi cuộc sống.

Nhật ngồi xuống bên cạnh Thư, lặng lẽ ngắm những cánh hoa vàng. Một lát sau, Nhật dịu dàng :

- Cháu ơi, cha cháu tự thiêu ḿnh đi như vậy là vị kỷ hay vị tha? Nếu chỉ vị kỷ, làm sao có được những cánh hoa trên sóng nước?

Thư lặng người đi. Chàng biết là Nguyễn Ánh xưng đế và chính quyền mới lập chắc chắn sẽ truy nă cha ḿnh. Chàng biết là cha ḿnh chết đi th́ mẹ con chàng sẽ an lành. Chàng hiểu ư cha, mẹ con chàng về Bùi Chu là tạo cơ hội cho tương lai của chính chàng, khỏi phải chôn vùi trong rừng sâu núi thẳm. Vả lại, dưới mắt chàng, những cánh hoa vẫn bập bềnh trôi theo mạn thuyền. Thư lẩm nhẩm « Lạy vong linh cha, tha cho con tội lầm lẫn » rồi nắm lấy tay Nhật.

Nh́n Thư, Nhật bỗng thấy đó chính là Thức. Vẫn chiếc hàm cương nghị bạnh ra và đôi môi lúc nào cũng hơi mím lại. Vẫn cặp mắt có chút lo lắng dọ hỏi. Vẫn nụ cười bướng bỉnh như thách thức. Thiếu chăng, nhưng may thay, là vết sẹo đâm xuống chân mày, dấu vết của tù ngục để lại trên trán Thức trong vụ án năm Canh Tư. Mầu nắng giữa trời cao lồng lộng vàng óng như mầu lụa mỡ gà dệt mẻ đầu mùa, vừa tươi vừa thơm tho. Bất giác, Nhật muốn ôm cả vũ trụ này vào ḷng ḿnh bỗng nay chẳng c̣n bất cứ một giới hạn nào nữa.

*

Rời Bùi Chu, Toàn Nhật xuôi về phía sông Lam bằng đường bộ. Đă cuối đông, trời vẫn rỉ rả trút xuống những cơn mưa kéo dài cả tuần lễ. Đường đi lầy lội, làng xóm vắng lặng, mỗi lần ghé vào Nhật chỉ nghe thấy tiếng chó sủa và những cặp mắt trắng dă thập tḥ ngó ra từ những cánh liếp đóng không chặt. Nhưng không ai mở cửa cho một nhà sư. Năm nay, nước sông tràn lên làm úng lúa, mót về được hột đực hột cái, bở bùng bục, sấy lên không đầy được một vốc.

Dân đói lại lũ lượt hàng đàn lê chân về phía bắc. Quan quân của tân triều nhà Nguyễn chặn lại, hỏi « ... định đi làm giặc hả ? ». Đó là dân Thanh - Nghệ, đất «tắm gội » của vua Lê - chúa Trịnh, xưa nay xung quân đều thuộc những đội quân ưu tú được cựu triều tin tưởng. Dân kêu « ... đói th́ đầu gối phải ḅ ! ». Quan quân, phần lớn là người gốc B́nh Thuận được phái vào trấn giữ và chia cắt Đàng Ngoài ra làm hai, nạt nộ « ... ḅ ra để rồi quay vào giết chúng tao hả ? ». Quan ra lệnh cho lính từ đằng sau lũy bắn quàng ra. Có kẻ trúng đạn, rú lên « ... mới lên ngôi vua đă bắn vào dân đen, ối trời ơi, trời có mắt không hả trời ! ».

Thế là lại giặc dă. Đă hơn hai trăm năm đánh nhau, tưởng yên, nhưng rồi lại phải làm giặc, trước tiên là để có miếng mà ăn. Ăn chỉ cần cơm, cơm hẩm ăn với những con cá đẽo bằng gỗ. Cá gỗ chấm nước mắm ớt để mút. Phải thật cay, cá gỗ mới ngon, cay đến cháy rát lưỡi khiến chẳng cần ăn nhiều cơm. Quan quân binh lính cười bảo nhau « Bọn ăn cá rô cây ! Cấm chúng vào Nam, bọn ma đói đó cái ǵ cũng ăn ... ». Người chết đói, xác c̣ng queo nằm rải rác trên đường. Không ai c̣n sức mà nghĩ đến chuyện chôn cất. Có khi cả làng cùng ôm nhau chết đói chết lạnh, lấy ai mà chôn. Quan quân sợ dịch, ra ruộng đào đất úng, rồi chở hàng xe ḅ xác người, vừa quẳng xuống vừa chửi « ... làm các ông một phen khó nhọc, bón thế này th́ sang năm lúa tốt, tha hồ mà ăn ! ».

Luồn lách tránh né đám quan quân, Nhật cuối cùng đến sông Lam, xin nhà đ̣ cho xuôi xuống Tiền Khẩu, định từ đó men sông Ngàn Cả về Thanh Chương. Ngồi góc khoang thuyền, Nhật ngửng lên. Người lái đ̣ tay cầm đĩa khoai lang luộc ch́a ra :

- Sư ông, mời sư ăn khoai.

Nhật nh́n đám năm đứa con ông gày g̣ hốc hác mắt đang hau háu, mỉm cười :

- A di đà Phật, sáng nay tôi đă ăn lót dạ rồi. Ông mời bà và các cháu ăn đi, cám ơn ông.

Bụng Nhật bỗng cồn cào chất chua. Thứ phản ứng của thân thể đang cần chất sống làm chàng khẽ nhăn mặt, rồi vừa cười vừa nhủ ḷng « Thân ơi, xác ơi. Mi đừng dày ṿ ta nữa ... ». Nhật tưởng đến những vị sa môn ngồi kiết già trên những rặng núi Hy Mă Lạp Sơn chót vót cao, tê tái lạnh. Họ không ăn cả tháng. Họ thấy ǵ ? Cảm ǵ ? Biết ǵ ? T́m ra được ǵ ? Mũi Nhật đánh bắt mùi bát sữa dê nóng bốc mùi hôi nồng nặc, thấy rơ ràng sữa đang trôi qua cổ họng chàng như đăù đang trôi qua cổ họng Sa môn Gotama sau ngày đắc quả thành Phật. Nhật soi mắt xuống nước. Nước vẫn trôi, ḍng sông Lam vẫn chảy, xưa đă bềnh bồng xác mẹ chàng trầm ḿnh v́ t́nh phụ. Ḍng sông xanh dập dềnh những bóng mây trắng bay ngược phía thuyền trôi, lâu lâu lại điểm dăm cánh én nháo nhác đi t́m mùa xuân muộn màng chưa tới. Bóng mây lúc vỡ thành muôn vàn xoáy nước, lúc lại hợp lại thành những khuôn mặt người, nào là Huệ, là Lữ, là Chúa Út..., nhưng chỉ thoáng sau đă tan ra, giạt theo ḍng nước chở về đủ mọi h́nh tướng từ thời vô thủy.

Tự bản thể, tất cả đều là vô thường. Đến hay đi, đi hay đến, là một. Từ Chân Như đi, về lại Chân Như, chẳng quá nửa sát na. Nào là tham - sân - si, nào là bi - trí - dũng, rồi thậm chí thấp hơn ở mức nhân - lễ - nghĩa - trí - tín cũng vậy. Có, khác ǵ không ? Từ không thành có, rồi có lại hóa ra không, chỉ là chuyển động về Chân Như - tathatha- vốn là tự thân nhiệm mầu của vạn pháp. Tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ. Vậy c̣n lấy ǵ để phân biệt ra sướng - khổ, ân - oán, trắng - đen, phải - trái, quân - thần, phụ - tử ?

Toàn Nhật cảm thấy ḷng thư thái, bất giác mỉm cười. Gió lại thổi. Lá rừng rơi xào xạc, rồi chim cất cánh bay. Nắng lên huy hoàng. Có phải những chiếc lá kia chính là lá Pippola đă giúp sa môn Gotama tỉnh thức? Chỉ một chiếc lá Pippola đă đủ mang cái thực tại mầu nhiệm thể hiệân trùng trùng duyên khởi. A, một chiếc lá tưởng như nhỏ nhoi mà quán chiếu được chân lư vô ngă trong cơi vô thường.

*

Đứng dưới chân đồi, Nhật ngửng lên nh́n ḷng lắng xuống một niềm b́nh thản. Trên kia là nơi Nhật trải qua cả một thời niên thiếu. Vẫn mái tranh lợp ẩn dưới ṿm cây đề nay đă thành đại thụ xum xuê lá. Vẫn những gốc chè thoai thoải lưng đồi đang trồi nụ. Vẫn con đường đất nện, hai bên hoa dại trắng xóa, dẫn lên cái thiên đường của tuổi thơ đầy bươm bướm, chuồn chuồn, cánh cam, bọ ngựa ... Vẫn mùi hương của đất, của cây, của cỏ, tỏa ra ướp thơm vạn vật, nhắc nhở cho con người sự có mặt của cuộc sống bùng lên từ những mảnh đất dẫu là khô cằn sỏi đá nhất.

Nhật hít đầy hơi vào lồng ngực, h́nh như có nỗi nỗi hân hoan nào đó bỗng ùa đến phá sự an nhiên vô tư lự của chàng. Tự cợt ḿnh, chàng cười ha hả, ừ th́ thế, có sao đâu ! Vắt chân lên cổ, Nhật vừa chạy lên đồi vừa gọi « Mợ ơi ! mợ ... » như một đứa trẻ con. Tiếng guốc lẹp kẹp, rồi tiếng xô cửa. Lưng c̣ng, búi tóc bạc xổ tung, một người đàn bà mắt đă ḷa, tay chống gậy chạy vội ra, rối rít :

- Ai, ai đấy?

Nhật đứng sững lại, hai tay nắm lấy bàn tay lăo bà, miệng reo :

- Con đây mợ, Nhật đây.

Lăo bà quơ tay lên sờ vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào vai Nhật, miệng líu ríu :

- Mắt mợ ḷa rồi, chẳng thấy được con nữa. Đầu không tóc thế này ... Mợ biết là con đi tu, nhưng lắm lúc lại quên mất, lẫn rồi con ạ !

Mạnh Thuyên, người con trưởng gia đ́nh La Sơn Phu tử từ trong nhà bổ ra ôm chầm lấy Nhật, mừng mừng tủi tủi :

- Chú tệ thật, hẹn về sớm mà sao măi đến nay mới thấy mặt.

Đặng-bà xua tay :

- Ối dào, đừng trách em - Tay lôi Nhật, Đặng-bà tiếp - vào nhà, vào nhà đă.

- Thầy đâu anh ? Nhật quay sang Thuyên.

- Trong kia, nhưng thầy không khỏe, c̣n nằm ...

Nhật bước theo Thuyên vào một căn pḥng kín cửa, bước đến cạnh giường, nh́n xuống. Phu tử nay chỉ c̣n da bọc xương, cặp mắt lờ đờ bỗng sáng lên, miệng chậm chạp từng chữ :

- Anh về, thầy mừng lắm. Có nhắn được lời thầy cho Nguyễn Du và Ngô Th́ Nhậm không? C̣n Thức, anh có tin ǵ của Thức không ?

Nhật nhói đau trong dạ, nh́n thầy, nhỏ nhẹ :

- Thưa thầy, Du sẽ nhận ra làm quan với Tân Triều. Nhậm bị đánh chết ở Thăng Long. Anh Thức con cũng mất rồi. Mất cách đây hai tháng ...

Nghe một tiếng như tiếng nấc, rồi Phu tử lả người ra, thở dốc. Mạnh Thuyên xốc bố ngồi lên, tay với bát thuốc đổ vào miệng. Đặng-bà nh́n xuống cái ghế đẩu, lặng lẽ không nói, nước mắt rỉ qua cặp con ngươi trắng dă, méo mó nhướng lên, cứ giật giật từng chập.

Tối hôm đó, Nhật kể lại cho gia đ́nh Phu tử những chuyện xảy ra trong trại hủi nằm ở thượng nguồn sông Mă ngoài Thanh Hóa. Bức thư tuyệt mệnh của Trọng Thức gửi vợ con rất ngắn, vẻn vẹn như sau :

« ... suốt đời v́ anh mà em khổ. Khổ chia ly. Rồi lại khổ cả đoàn tụ. Nh́n cảnh Hy Doăn Ngô Th́ Nhậm bị đánh đến chết trên sân Văn Miếu, anh hiểu là tân triều nhà Nguyễn sẽ truy lùng tróc nă anh. Để lụy cho em và con, anh nào đành ḷng. Sức anh so với điều anh mong thực hiện quả là không tương xứng. Than ôi, lực bất ṭng tâm. Vậy xa em và con bây giờ, hay một vài năm nữa có lẽ không khác ǵ được.

... Quốc Thư con, cha mong con về giáo phận Bùi Chu là để con thêm điều kiện học hỏi và khỏi bị gạt ra ŕa đời. Chí tiến thủ, đừng sờn. Điều cha không đạt, con - hay là sau này, con của con - sẽ có cơ thành. Đẻ con trai, con đặt tên nó là Nguyễn Trường Tộ. Tộ có nghĩa là vận may cho cả quốc gia xă hội. Vận may đó các con hăy vun đắp lên, làm mát ḷng ta nơi chín suối. »

La Sơn Phu tử nghe, không một lời, cười mếu máo rồi vẫy Mạnh Thuyên d́u ḿnh lên gường nằm. Đặng-bà dựa lưng vào vách, lẩm bẩm một ḿnh, thỉnh thoảng lại thở dài. Một lát sau, Đặng-bà lên tiếng hỏi tin Mai và Quốc Thư. Nghe Mai nhắn là qua tết hai mẹ con sẽ lên thăm, Đặng-bà tươi lên, rồi hỏi :

- Mẹ con nó chắc có giữ được tập sách Trọng Thức lao tâm lao lực viết từ gần chục năm nay ? Tên tập sách là « Tề Nhân Thế Đạo ».

Nhật ngạc nhiên, lần mở tay nải.

- Tựa tập sách là do chính mợ đề cho Thức bằng mực son đỏ...

Những vết nhăn chi chít ở đuôi mắt hằn lên như vết chân chim, Đặng-bà lim dim ch́m vào một cơi xa vắng. Bà hồi tưởng lại thuở Hoàng đế Quang Trung mới băng hà, Trọng Thức trốn khỏi Phú Xuân, lật đật trở về Bùi Phong, cùng Nguyễn Thiếp x́ xào to nhỏ ba ngày liền. Lúc ấy, Thái tử Quang Toản c̣n nhỏ, cậu là Bùi Đắc Tuyên phụ chính, vừa nắm quyền đă bắt giết Nguyễn Huy Tự và hục hặc ngay với Tư đồ Vũ Văn Dũng. Tây Vương Nguyễn Nhạc cũng có ư soán ngôi, gọi đám thủ hạ ở Qui Nhơn sửa soạn giáp mă. Đồng thời, Nguyễn Ánh ở Đàng Trong hớn hở mang quân uy hiếp B́nh Thuận. Thiếp hỏi :

- Danh Kỷ nghĩ thế nào?

- Kỷ kết với Dũng, không khéo nay mai sẽ đụng độ với Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân. Nhưng chẳng ai bảo được ai, cũng chẳng ai nghe ai ! Lại có tin đồn chiến hạm Ypha Nho và Pha-Lang-Sa đang đến cửa Thị Nại ...

Thiếp thở ra, thản nhiên :

- Song Ngư nước cạn, non sông chúa Nguyễn lại về tay chúa Nguyễn, cứ chờ ...

Trọng Thức cắt ngang :

- Về tay chúa Nguyễn là về luôn tay cả một đám phiêu lưu xâm lược, trục lợi cho Công Ty Đông Ấn. Thưa thầy, nếu thầy đến Phú Xuân th́ lại khác. Đức hạnh của thầy sẽ làm những kẻ tham quyền chỉ t́m phú quí danh vọng chùn ḷng, chùn tay. Có thế mới giữ được công chính, tiếp tục khai mở công việc của Tiên Hoàng...

- Đức hạnh ! Xưa Danh Kỷ ton hót với Nguyễn Huệ muốn lấy cái đức hạnh của thầy hầu yên đám sĩ phu Bắc Hà. Ngày nay, thu phục được Ngô Th́ Nhậm làm việc đó, họ c̣n cần chi ta ! Anh không thấy họ chỉ giao cho thầy Sùng Chính Viện, dịch sách Tiểu Học, dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra tiếng Nôm sao ?

- Thưa thầy, công việc đó tối quan trọng chứ đâu là nhỏ. Thầy lại là Chánh khảo kỳ thi Hương đầu tiên bằng chữ Nôm, để lại vết xe cho hậu thế làm theo. Đó là chuyện trăm năm hi hữu ...

- Hừ ! Thầy cũng biết là anh có nhúng vào việc này với Danh Kỷ. Quả hắn cũng có tâm phục thầy thật. - Nguyễn Thiếp cười tủm - Huệ chữ nghĩa ít, bám vào Kỷ nên sợ đức hạnh. Nay hắn chết đi rồi, Kỷ vẫn c̣n đó, có ǵ đáng lo ?

Thức chột dạ. Thầy chàng chỉ hiểu Huệ qua thủ đoạn của Kỷ, c̣n trước sau chưa thấy tầm nh́n của một kẻ mà sự hiểu biết không có bó buộc trong ṿng chữ nghĩa. Chàng kể cho thầy nghe những giằng co giữa quan niệm chính trị và xă hội của Kỷ và đạo Tề Nhân mang cách nh́n đă nhen nhúm trong cuộc cách mạng của những nước Âu Tây. Thiếp hỏi :

- Huệ có định đổi đạo, theo phép Tề Nhân không ?

Thức đáp :

- Thưa, không hẳn là rơ rệt, nhưng chỉ bảo « Đừng vội, lịch sử đi bước của lịch sử, chậm nhưng chắc. Lớp kẻ sĩ thường to miệng, nói ra là đốt giai đoạn, nhưng khi đưa việc cho làm th́ lại tŕ hoăn neo kéo về phía sau. Nếu không tiến, thế là lùi đấy. Chẳng dân tộc nào dậm châm tại chỗ được nữa ».

Thiếp hắng giọng, vẻ khó chịu :

-Tề nhân ? Thế nào mà tề nhân cho được ? Thượng hạ bằng đẳng, quân thần phụ tử lộn x̣ng, ông cũng như thằng à ?

Thức giải thích. Thiếp nghe, bàn căi nhưng khi đuối lư lại mang tư cách là thầy ra để chặn họng. Hai thầy tṛ lời qua tiếng lại hai ngày, không ăn không ngủ, chỉ uống nước vối và hút thuốc lào, tiếng ṣng sọc rít qua khe cửa. Đặng-bà lo, cứ nhấp nhổm bên ngoài. Tối hôm cuối cùng, Thiếp mở cửa pḥng, tay đẩy Trọng Thức ra, miệng gầm gừ :

- Anh nay khôn lớn, có cánh cứ bay. Bay cho đến cái xă hội cộng ḥa ǵ ǵ đó, nào có cần chi đến tôi nữa !

Tiếng sập cửa sắc gọn như tiếng sập của lưỡi dao treo trên máy chém. Nó quyết liệt cắt đứt những ǵ làm cho Thức chảy nước mắt, ngồi im trên góc phản kê gian ngoài. Đặng-bà nh́n Thức ngậm ngùi. Bà vào, t́m dưới gầm giường, lục lọi một lúc rồi ra ngồi cạnh Thức. Bà kể chuyện nàng Mây, con gái Hà Công, đă trộm mật kíp, quyển sách tiên tri mọi việc nơi trần thế của bản Mê Thượng, giúp Đèo Kha t́m đường « kíu» nước cho Mê Hạ thế nào ba mươi năm về trước. Kha trúng độc chết. Mây đến Bùi Phong. Mở ra th́ cuốn mật kíp chỉ toàn giấy trắng, trừ một trang có vẽ cái đồ bản đập chặn nước mà Thiếp đă bỏ công t́m ra. Rồi đập bị phá, sau đó Hà Công đến Bùi Phong bắt Thúc Khải vào Đàng Trong, đợi rồng bay để tạo nghiệp đế. Trên đường, Hà công vứt xác Mây khi đi qua chân núi Bạch Tượng. Từ đó, dân xă Nam Hoa hàng đêm nghe tiếng đá rền rĩ như than khóc trong hai mươi năm liền. A, th́ ra đó là chân núi Bạch Tượng, nơi Thức đă gặp Băng Vân, người con gái muốn thoát kiếp đá trở về làm người, nhưng nay đă bị chôn chặt vào những tinh thể nham thạch trong phiến đá chàng vẫn đeo theo trên mọi bước đường luân lạc. Nh́n Thức nước mắt lại rưng rưng, Đặng-bà đặt cuốn mật kíp lên phản, nhẹ nhàng bảo :

- Để con ghi chép cho đời sau những điều con ấp ủ !

Bà nắn nót tô bốn chữ « Tề Nhân Thế Đạo » rồi hai tay đưa cho Thức, tiếp :

- Thầy không làm được việc của con. Ai có thời người nấy ! Thở dài, Đặng- bà nói như than - Và ai rồi cũng có phận nấy, con ạ !

Nghe kể xong, Nhật cầm sách « Tề Nhân Thế Đạo » trân trọng đưa gần mắt Đặng-bà. Lấy tay sờ soạng rồi đưa lên mũi ngửi mùi mực, Đặng-bà mắt ḷa nên không biết sách vẫn như xưa, chỉ cứ là một thếp giấy trắng chưa có đến một chữ.

*

Xuống trại, Toàn Nhật nhắm phía rặng Giăng Màn thẳng bước. Chiếc áo nâu sồng thấp thoáng trong rừng cây rạc, lá nhọn tua tủa chĩa ra như những vạt dao sắc, xanh nhờn nhợt thứ màu đến từ nơi không có sinh khí. Sau hai ngày đường, bản Mê Thượng hiệân ra trong tầm mắt. Bản vắng hẳn người từ thời Nguyễn Nhạc xưng là Thái Đức Hoàng đế ở Qui Nhơn. Dạo sau này, một số người vùng đó lại kéo về, hẳn để tránh tai vạ từ ngày triều Tây Sơn sụp đổ. Hỏi thăm, Nhật lần đến đập Cheo Reo. Đập nay chỉ c̣n là những phiến đá ngổn ngang trong ḍng nước sông Mê đă nối liền Mê Thượng và Mê Hạ, cuồn cuộn xuôi xuống hạ lưu, nước nổi bọt trắng xoá hai bên bờ.

Nhật lần bước trên ven sông, nghe trong đáy nước có lời than khóc, oán hờn, căm giận của đám tráng đinh bỏ ḿnh, kẻ để « chặn » nước, người để « kíu » nước, tất cả chỉ v́ ai đó trong tộc họ Hà năm xưa đă táng mả vào hàm rồng. Nhưng đất phải cằn, cằn đến độ đạp chân vào là tóe lửa, để rồng bay lên. Thế là để rồng bay, đập Cheo Reo xây ra để chặn nước. Nước đă «chặn» rồi, tất có kẻ « kíu » ! Tất có Đèo Kha. Tất phải đoạt mật kíp mới t́m được phép phá Cheo Reo. Phá rồi, xương cốt ông tổ họ Hà, từ họ Hồ, rồi lại thành họ Nguyễn phải mang vào Đàng Trong. Vùng Tây Sơn chọn chỗ đất cằn không khó. Nắng đổ lửa làm cháy tóc. Rồng bay, Biện Nhạc reo lên. Đúng, kia ḱa, rồng bay trong mây đó. Khổ thay, sông Ngư nước sắp cạn rồi. Con rồng ấy lại xà xuống. Để con rồng khác bay lên. A ha, con cháu nhà rồng vốn đâu có phải chỉ một. Những con rồng con cùng giống với giun sán trong bụng mọi người lúc nào mà chẳng toan tính bay lên. Từ Đàng Trong cho đến Đàng Ngoài, ở trên rừng, ở dưới biển, rồng con mai phục với giun sán trong cả đại tràng lẫn tiểu tràng. Rồng muốn gặp Tiên nên thập tḥ, chỉ đợi dịp là tung cánh đập vào bầu trời bỏ ngỏ.

Nhật men đến cồn sông, đảo mắt t́m một ngọn đồi trọc phía tay phải nh́n từ phía thượng nguồn. Từ gốc một cây đề, sáu bộ về phía đông và tám bộ phía nam là nơi họ Hà xưa để mả. Giữ chắc tay nải, Nhật cẩn thận tuột xuống ḍ dẫm. Đúng là đây. Một hơm đất rộng bằng hai lần cái nia. Lạ chưa, đất như đất śnh lơm sâu xuống, chung quanh lá rạc xỉa ra như chĩa dao canh gác.

Bật hồng thắp hương, Nhật mở tay nải, để phiến đá Băng Vân lên trên sách Tề Nhân Thế Đạo vẫn c̣n trắng chữ. Phiến đá đổi màu, từ xanh sang trắng bệch, rồi trong suốt, ở giữa là một giọt máu đỏ lồng lộn như muốn phá chạy. Trời bỗng tối xầm xuống. Lá rạc mọc quanh mả sao bỗng ngả nghiêng xô đẩy dẫu chẳng có lấy một cơn gió. Có tiếng gầm gừ hầm hè lạ hoắc. Rồi một tiếng sét. Trời rách toạc làm hai mảnh. Ở giữa ánh xanh lè, lân tinh từng đợt nối nhau chớp lóe lên từ cuối đất. Nhật hoảng sợ. Lần đầu chàng mất tự chủ, hai tay nắm chặt, chân cứng ra như bị vọp bẻ. Nhật khẽ niệm :

- A di đà Phật.

Dứt lời niệm Phật, Nhật tập trung tinh thần, trân trọng tưởng đến lời tuyệt mệnh của Trọng Thức, hai tay nâng phiến đá và sách Tề Nhân lên ngang mày, rồi ném xuống lỗ huyệt. Một tiếng cười đinh tai nhức óc bỗng vang lên lanh lảnh.

*

Nhật mở choàng mắt, nh́n xuống. Giữa lỗ huyệt, trên mặt đất śnh, một người đầu đội mũ đỉnh nhọn có đính hồng ngọc, thân phủ mấy lớp áo choàng đủ màu, cái nọ so le với cái kia, cổ tay đeo ṿng dát vàng, cầm một chiếc roi cá đuối quật vùn vụt vào một người đàn bà lơa lồ nằm dưới chân, miệng hét :

- Mở mắt ra mà xem. Chế Mân đây, hỡi Huyền Trân. Ta chết, tro xác hỏa thiêu c̣n nóng, mà mi đă bỏ ta theo trai, dập dờ ba tháng liền trên sóng nước với thằng Trần Khắc Chung. Thế mà cành vàng với lá ngọc ...

Chưa dứt lời, Chế Mân lại quật roi xuống. Huyền Trân, chắc vậy, quặn người rú lên năo nùng, miệng khóc thét, chắp tay cuống quít lạy.

- Bay bảo nhập gia tùy tục. Tục lệ nước ta là chết theo chồng th́ bay kháo nhau thế là mọi rợ, rồi sai người đi cướp con gái về. Lấy nó, ta đă dâng hai châu Ô, Rí để dẫn cưới, ḷng chân thành mong mỏi từ nay hai nước hết can qua chinh chiến. Nhưng gả con cho ta, phải chăng bay chỉ rắp tâm lấy đất của nước ta? Không phải ư ? Sao con gái bay trốn về rồi bay lại không biết trả lại ta hai châu Ô, Rí ? Bay là loài người hay là hổ beo, rắn rết ? Từ vua đến quan, bay độc chỉ c̣n trái tim dă thú, mưu quyền trục lợi, chẳng sá ǵ đến xương máu con người ...Tiến hành chiến tranh diệt chủng, bay gọi thế là tầm ăn dâu, dần dần lùa dân ta vào Phan Rang, Phan Rí, đốt cho tan hoang thành Đồ Bàn, đập vỡ tượng Brahma, Vishnu và Shiva, tiêu hủy dấu vết văn hóa Chàm.

V́ thế, ta nguyền :

Chính bay sẽ tiêu hủy sách vở, gia phả, đền đài do chính tay bay làm nên, v́ đứa nào đứa nấy chỉ tẹp nhẹp ḅn rút của riêng mà không biết đến của chung. Bởi vậy bay sẽ không có quá khứ. Không quá khứ, bay mù mờ trong hiện tại, luẩn quẩn hỏi bay là ai. Cũng v́ thế bay không thể biết tương lai của bay ra sao, suốt hai trăm năm nghi hoặc, ṿng vo đi rồi để lại trở về nơi khởi điểm.

Ta nguyền cho bay đi cướp nước người th́ hai trăm nữa lúc nào cũng có kẻ ḍm ngó cướp nước bay. Đường dọc đất nước ta, từ Thuận Hóa trở vào châu Ô, cho đến Rang, Rí vốn là vương quốc Chàm, sẽ đầy Thần Sấm, Con Ma để rải mưa bom nắng lửa vào rừng, vào núi, trên sông, dưới biển...

Muốn hóa giải lời nguyền, mỗi đứa bay phải đọc một vạn lần Kinh sám hối.

Toàn Nhật run rẩy chắp tay, mồm tụng:

« Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Lại từ vô thủy đến nay, chúng con chất chứa nghiệp ác nhiều như cát sông Hằng, gây tội lỗi đầy cả đại địa, hết bỏ thân này lại thụ thân khác. Ba nghiệp của thân, thứ nhất là nghiệp giết hại...Kinh dạy : Nghiệp này làm chúng sinh đọa vào địa ngục, ngă quỉ để chịu khổ.Khi có tâm thức này, thường ôm ḷng thâm độc, không dạ xót thương, hoặc v́ tham lam mà giết, hoặc v́ si mê giận dữ khinh mạn mà giết, phá hồ tháo nước, nhân gió phóng lửa...

Lại từ vô thủy đến nay, hoặc khởi binh đánh nhau, giao tranh nơi biên trường, hai bên giáp mặt giết hại lẫn nhau, hoặc tự ḿnh giết, hoặc sai người giết, hoặc nghe ai giết sinh tâm vui mừng, hoặc giận dữ khoa mác múa đao, hoặc chém, hoặc đâm, hoặc xô xuống hầm hố, lấp hang phá ổ, hoặc dùng xe, ngựa lăn cán dày đạp chúng sinh, gây ra tội vô lượng vô biên...

Lại từ vô thủy đến nay, đối với chúng sinh, hoặc dùng roi gậy, gông xiềng, hoặc ḱm kẹp tra khảo, hoặc trói buộc giam cùm, tuyệt cơm tuyệt nước, dùng những cách ác độc làm khổ ải chúng sinh...

Ngày nay chí thành hướng về mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Thánh chúng, cầu xin hết ḷng sám hối.»

Đột nhiên, trời bỗng sáng rỡ nhưng không thấy mặt trời. Mở mắt ra nh́n, không c̣n Chế Mân mà nay là Đèo Kha, chàng thanh niên thân h́nh như đồng mun, lưng quấn khố, tay đưa sáo đinh bia lên ngang miệng. Dưới chân, không c̣n Huyền Trân mà là nàng Mây, tim c̣n ghim mũi tên do chính cha ḿnh bắn ra, tóc xơa xuống đất śnh, miệng vẫn nhếch ra để lộ chiếc răng nanh khểnh như thể thách thức.

Tiếng nói lại cất lên :

- Chế Mân sinh ra Đèo Kha, Huyền Trân sinh ra nàng Mây. Rồi ngược lại. Nhân và quả là vậy. Thật ra, nếu từ nhân đến quả là bất dịch th́ làm ǵ có thời gian. Thời gian qua cảm thức của h́nh tướng vô thường, không tồn tại trong sự bất dịch. Vậy nhân - quả có ngay trong kiếp này, không đợi đến kiếp sau. Ác giả ác báo. Nghe đây :

Ta nguyền cho bay đắm đuối vào vực sâu của quyền lực và danh lợi. Triều đại nào cũng vậy, chỉ hai đời sau là vua bay hóa cọp, quan tướng thành rắn rít, cả bọn chúng đều biến thành đĩ bợm để đánh lừa dân bay. Vua quan mà đĩ bợm, hàng dân trông vào đâu ? Dần dà, để tồn tại, đi với ma phải mặc áo giấy cho nên dân bay rồi cũng phải đánh đĩ. Trong cái vực sâu đó, ḷng tham lam và tính tàn bạo sẽ khiến cha giết con, vợ phản chồng, anh em đâm chém nghi kỵ nhau, máu chảy hai trăm năm đất có thấm cũng chẳng thể khô. Muốn hóa giải lời nguyền này, mỗi đứa chúng bay phải tụng một vạn lần Kinh sám hối ...

Toàn Nhật như bị thôi miên, mấp máy miệng, bắt đầu tụng:

« Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô quán Tự Đại Bồ Tát

Sở dĩ ngày nay chúng con sám hối chính v́ là từ vô thủy nhẫn lai, c̣n ở địa vị phàm phu bất cứ sang hèn tội. lỗi khôn lường...Mười điều ác nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao...tuy nhiều nhưng không ngoài ba chướng : phiền năo, nghiệp chướng và quả báo...Nay đem hết ḷng thành, vận tâm thù thắng sám hối ba chướng. Muốn trừ diệt ba chướng phải phát bẩy tâm.

Thứ nhất, tâm tủi hổ, là tự nghĩ ta với đức Thích Ca đồng là phàm phu, mà đức Thế Tôn đă thành đạo đến nay trải qua số kiếp nhiều như cát bụi, chúng ta th́ lại cùng nhau say đắm lục trần trôi lăn trong ṿng sinh tử, chưa biết bao giờ ra khỏi...

Thứ hai, tâm e sợ, đă là phàm phu th́ thân khẩu ư nghiệp thường thuận ưng với tội lỗi...

Thứ ba, tâm ĺa dứt, v́ đường sinh tử chỉ là vô thường, khổ, không, vô ngă, bất tịnh, hư giả như bọt nước nổi, tan, xoay vần qua lại như bánh xe lăn; c̣n thêm sinh, lăo, bệnh, tử và tám điều khổ nung nấu không dừng...

Thứ tư, tâm phát Bồ Đề. Kinh dậy « Pháp thân do vô lượng công đức trí tuệ sinh ra, do tu sáu pháp Ba la mật sinh ra, do từ, bi, hỉ, xả sinh ra, do tu 37 pháp trợ Bồ Đề sinh ra. Muốn được thân đó th́ phải phát tam Bồ Đề, cầu được nhất thiết chủng trí, Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, chứng quả Tát bà nhă, thanh tịnh Phật độ, thành tựu chúng sinh, chẳng tiếc thân mệnh tài sản »…

...Thứ bẩy, tâm quán xét tội tính. Tội không tự tính, do nhân duyên sinh, do điên đảo thành. Đă do nhân duyên sinh th́ cũng do nhân duyên diệt. Sinh tội tức gần gũi bạn ác, diệt tội tức tịnh tâm sám hối...Khởi bẩy tâm, tưởng mười phương chư Phật, ngày nay cung kính chắp tay, phơi bày tâm can, cầu khẩn tỏ ḷng sám hối.

Một cơn lốc không biết ở đâu bất ngờ ụp xuống xoáy tṛn. Đất đá bay tứ tung, va chạm vào nhau nghe ầm ầm đinh tai nhức óc. Tiếng Chế Mân lại thét lên đến rách màng nhĩ :

-Đă huyễn hoặc, bay lẩn quẩn tô vẽ ngay cả cái thảm kịch chém giết lẫn nhau, tự lừa chính ḿnh bằng cách kiêu mạn đ̣i làm đỉnh cao cái này, tiền đồn cái nọ. Ngoài sự hợm hĩnh không coi ai ra ǵ, tưởng ḿnh hơn thiên hạ mà thật chỉ hơn ở chỗ lắt léo vặt vănh, ta lại nguyền cho bay thêm căn bệnh anh hùng. Bởi anh hùng nên chỉ thấy sức mạnh. Chỉ thấy sức mạnh nên kéo dài thảm kịch chiến tranh chém giết. Bay không biết rằng một đất nước hạnh phúc có nhiều hiền triết hơn anh hùng. Một đất nước may mắn là một đất nước không có anh hùng. Không cần anh hùng. Nơi nào anh hùng quá nhiều, nơi ấy không dung kẻ hiền triết. Người có ḷng tử tế, tâm ngay thẳng, tránh phải nh́n, phải nghe, đành t́m nơi rừng sâu, núi cao, hay biển vắng mà ẩn trốn.

Thế là bay cứ thế hệ trước hô anh hùng để giết thế hệ sau. Ông cha bay ngoa ngôn đặt bẫy xập con cháu, đời nối đời triền miên u mê, máu vấy tay ḿnh lại đem lên tô cờ tô quạt, cứ hết đánh đứa này đến đuổi đứa nọ, bỏ sức vào những việc vừa hàm hồ, vừa giai đoạn...

Thế là, ha ha, anh hùng nhưng nghèo, đói và dốt . V́ thế nên nhục. Nhục lắm nên lại căm, lại hiềm, lại luẩn quẩn tṛ khôn vặt, chỉ đợi dịp là ḥ hét rủ nhau làm anh hùng. Dịp nào? Cứ đợi ngoại bang đến là đất nước bay sinh ra anh hùng. Anh hùng tập hợp bay lại. Bay đoàn kết với nhau để đánh đuổi cho đến lúc ngoại xâm kéo nhau ra. Sau chiến thắng vẻ vang, bay hô hào xây dựng lại bằng năm, bằng mười khi trước ? Nhưng không, từ máu tham và sự mê đắm quyền lực, bay hục hặc, chia rẽ, kéo bè, kết đảng rồi sâu xé lẫn nhau. Kẻ bên ngoài thấy thế lại ḍm ngó ḥng trục lợi. Chính v́ lẽ ấy mà lại sẽ có ngoại xâm ! Thế là tiếp tục loanh quanh cái ṿng đánh đuổi, nhưng không thoát ra được nghèo, đói và dốt ...

Tụng đi, muốn hóa giải căn bệnh anh hùng hăo huyền, mỗi đứa bay phải tụng một vạn lần Kinh sám hối.

Toàn Nhật tụng :

« Quán tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhă Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất diệt, bất sanh, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,tưởng, hành, thức, vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Bỗng tiếng Chế Mân lại ồm ồm vang lên:

- C̣n bọn sĩ phu nước bay, chúng chỉ biết ngâm vịnh và lừa dối. Khi Huyền Trân sang Chiêm, chúng dè bỉu chép miệng «Tiếc thay cây quế giữa rừng. Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo » . Cướp được đất, chúng lại hợm hĩnh xướng họa là « Hai châu Ô Rí vuông ngh́n dặm. Một gái thuyền quyên có mấy mươi ». Để che cái tội phỉnh lừa để cướp đất, chúng lại ngụy tạo ra cái huyền thoại t́nh yêu Huyền Trân - Khắc Chung lăng mạn mà quên bẵng đi mụn con ta và t́nh vợ chồng giữa ta với Huyền Trân. Bọn đó, ta nguyền cho chúng mắc hai căn bệnh.

Thứ nhất là bệnh chỉ nh́n thấy chóp mũi, hời hợt với cả người lẫn ḿnh.

Thứ hai là bệnh đại ngôn, ǵ cũng hô lên là biết, là có, cứ thế tự ru ngủ ḿnh cho đến độ tin là biết thật, có thật.

Hai trăm năm nữa, chúng thời nào cũng phải sống nhục nhă, rồi chết nhục nhă. Nhục nhă sống v́ hèn, cong lưng tùng phục, giả đạo đức, miệng một đằng ḷng một nẻo. Nhục nhă chết v́ hèn, bỏ vào quách rồi lưng vẫn không thẳng. Cả đời chúng không để lại được dăm chữ dẫu cứ mở miệng là ngâm là vịnh, kiêu căng cho ḿnh hơn người, song thật ra chúng chỉ lặp lại bắt chước chẳng khác ǵ loài khỉ.

Nghe đây :

Muốn hóa giải lời nguyền, chúng nó phải làm việc trí tuệ ... và phải tụng một vạn lần Kinh sám hối.

Toàn Nhật lại tụng :

« Nay xin sám hối bốn nghiệp của miệng...Từ vô thủy đến nay, nghiệp ác khẩu ở trong bốn nẻo, sáu loài, tạo nhiều tội lỗi. Lời lẽ hung bạo, mắng nhiếc, hủy nhục, gây họa kết thù, oán thán trời đất, trách móc quỉ thần, chê bai hiền thánh, vu oan giáo họa gây ra tội nghiệp vô lượng vô biên.

Lại từ vô thủy đến nay, nghiệp vọng ngữ nói gian nói dối trong ư mưu cầu lợi dưỡng, danh dự, khiến dấu diếm t́nh thực, man trá đủ điều, trong tâm mê muội, ngoài mặt dạn dầy, chuyện có nói không, chuyện không nói có, ...lường đảo dối hoặc người đời, đến như cha con, vua tôi, bè bạn mà nói năng ǵ cũng không khi nào thành thực, khiến người khác lầm nghe ḿnh mà phải tan nhà mất nước. Đă thế, c̣n tṛ yêu thuật, thường tự khen tự khoe đă chứng tới bực tứ thiền, tứ vô sắc định, an na bát na,...bày tṛ lạ mê hoặc để mong người cung kính cúng dâng.

Lại từ vô thủy, v́ nghiệp ỷ ngữ, nói năng thêu dệt tạo ra bao nhiêu tội lỗi. Dùng âm từ hoa mỹ, văn chương bóng bẩy, xuyên tạc sai lầm, trang sức cho trái quấy, khéo đặt chuyện dâm ô, phóng túng tư thù, không kể lời nghị bàn công chính, dẫu người ta là trung thần, hiền nhân hay chí sĩ vẫn cứ làm văn thêu dệt cho nên tội, để người đời sau tin cho là thật...

Lại từ vô thủy, khen trước mặt, chê sau lưng, tới người kia nói chuyện người này, chỉ biết lợi ḿnh, không nh́n thấy hại đến kẻ khác, dèm siểm để ly gián, vu oan khiến vua tôi nghi kỵ nhau, cha con bất ḥa, vợ chồng ly tán, họ hàng thân thích xa nhau, mất nghĩa thầy tṛ, đoạn t́nh bè bạn, cả đến hai nước đang giao hảo mà phải hủy bỏ minh ước, gây sự oán thù đem binh đánh nhau giết hại trăm họ.

Những tội gây ra như thế vô lượng vô biên, ngày nay xin chí thành lập tâm sám hối. »

Trời bỗng tối xầm khiến trái đất như trôi vào một thứ chất lỏng đen như mực. Tất cả đắm ch́m vào sự im lặng tuyệt đối không thể tưởng tượng nổi. Thời gian cong đi rồi biến mất, chẳng c̣n để lại bất cứ dấu vết nào kể cả trong ư niệm. Đột nhiên, Chế Mân lại quát:

- Ta chưa thấy từ cổ kim có giống nào như bay. Bay huyễn hăo, rồi sinh ra tị hiềm đố kỵ. Ta không cần nguyền, bay cũng đă sa vào cái mẽ bề ngoài, cái nhỏ nhen bên trong.

Có tám cảnh thiên đường, chỉ cần bay có ba đứa là chẳng đứa nào trong bọn bay lên được v́ thằng nọ đạp vào đầu thằng kia.

Có bảy tầng địa ngục, không cần ai bảo, bọn bay đứa này lôi đứa kia, rồi xuống đấy cả...

Buồn cười lắm, thằng tầng số sáu khinh thằng tầng số bảy, thằng tầng số năm hài ḷng v́ thấy có thằng ở tầng số sáu, và chỉ biết tiên tiến vươn lên tầng số bốn. U mê như thế, làm sao ra khỏi địa ngục cho được.

Nay ta làm phúc bảo cho : muốn ra khỏi địa ngục, mỗi đứa bay phải đọc một vạn lần Kinh sám hối. Đừng hẹp ḥi, tụng Kinh của bất cứ tôn giáo hay quốc gia nào cũng được ...

Nhật lẩm nhẩm A di đà Phật, rồi tụng những bài kinh học được ở trại hủi ven bờ sông Mă :

«Lạy Chúa con, là Đấng rất trọng, rất công thẳng phép tắc vô cùng, có quyền phạt linh hồn và xác con xuống luyện ngục cùng mất sự vui trên Thiên đàng đời đời. Con nguyện dốc ḷng từ nay về sau giữ mười sự răn, chừa mọi sự dữ, mà con cầu cùng Đức Chúa Trời tha tội cho con, v́ con cậy đă có công Chúa Giê-Su là Con một Đức Chúa Trời đă chuộc tội chịu chết cho con.

Lạy ơn Đức Chúa Trời chỉ một ḷng tha thứ liên măi, chúng con sấp ḿnh kêu xin Chúa cho linh hồn ngườichúng con, xin Chúa chớ để các linh hồn ấy phải tay ma quỉ , cho các linh hồn ấy được nghỉ ngơi đời đời và được sáng soi vô cùng.

Lạy ơn Đức Chúa Giê-Su ! Chúa con đă phán rằng : bay hăy xin th́ bay sẽ được, vậy con xin Chúa con ḷng lành vô cùng thương đến các linh hồn nơi luyện ngục, xin Chúa con nghe lời con cầu xin kêu van Chúa con mở cửa cho các linh hồn ấy được vào và được sự sáng vô cùng hằng soi cho liên. Amen.

*

Nhật mắt nhắm, tay chắp, cứ thế tụng niệm. Ban đầu, tất cả mọi nhận thức ră thành từng mảnh lềnh bềnh trôi qua sông Mê, về sông Lam, rồi ra cửa Hội để thấm chất mặn của cả một đại dương nước mắt. Về sau, những nhận thức đó lại tụ lại, thu về một, sáng lên bảy sắc xong là tan ra, trở thành không h́nh, không thể, không tướng, không có, không không ... Cứ thế, chỉ một chớp mắt là ră ra rồi chỉ một chớp mắt là tụ lại.

Nghĩ về những bước đường vào Đàng Trong, Nhật ngậm ngùi tưởng đến những vạt áo chàm thấp thoáng bên những ngôi cổ tháp rải rác suốt từ Bố Chính vào tới Phú Yên, chứng tích một nền văn hóa đă có thời vô cùng rực rỡ. Từ đồng bằng sông Nhị đă cằn cỗi không c̣n đủ sức nuôi cho đủ ăn, con đường Nam tiến của cư dân Đàng Ngoài gần như là một sự bó buộc của thiên nhiên khắc nghiệt. V́ thế, máu đổ nhưng làm sao mà tránh được. Vậy th́ họ tội t́nh ǵ ? Nhưng có hay không cũng thế. Có, sám hối. Không, cũng sám hối. Bởi trên con đường đó đă có kẻ thua người thắng, kẻ được người mất. Khi vào, người dân Đàng Ngoài không hề mang sự chiến thắng làm vật cản để họ ḥa ḿnh vào dân tộc Chiêm. Họ tiếp thu phong tục, quần áo, văn ngữ, âm nhạc để cùng chung sống và gầy dựng tương lai qua đàn con cháu đă cộng sinh hai chủng tộc. Nhưng thế quyền lại khác ! Đám Tốâng nho hoành hành bằng thứ ư thức hệ cặn bă của phong kiến lại buộc hàng dân vào cái nề nếp trói buộc đệ ổn định thứ Đế quyền cũ rích. Đến thời Vơ Vương, chúng bắt người Đàng Trong ăn mặc kiểu người Tầu, chứ chẳng phải là cách trang phục của dân Đại Việt ở Đàng Ngoài.

Nhật chạnh ḷng hồi tưởng h́nh ảnh Chế Mân quất roi vào Huyền Trân, rồi Đèo Kha quất roi vào nàng Mây. Sợi ân ân oán oán cứ ràng buộc lấy nhau như dây kết rối. Mây đă chết cho Đèo Kha mà vẫn chưa trả hết nghiệp của Huyền Trân cho Chế Mân sao? Chiếc răng khểnh cứ như trêu chọc nhắc Nhật h́nh bóng Chúa Út, kẻ chẳng phản bội một ai, đă yêu, đă sống. Rồi nàng chết, và chỉ xin chàng gọi nàng bằng cái tên thật, là Khinh Vân, nhẹ hơn một đám mây bay nhanh qua đời. Cái chết của nàng là chuyện anh em Tây Sơn đâm chém nhau. C̣n cha giết con, vợ phản chồng ? Th́ đă có Hà công, có Hoàng Tế Lư, Đặng Thị Huệ, Trịnh Sâm...Rồi Đàng Trong đánh Đàng Ngoài, rồi dân giáo chốùng dân lương...Quả là có, có hết, và cứ tiếp tục có.

Có những kẻ sống trong vực sâu của quyền lực và danh vọng hăo huyền. Chúng nhan nhản trong chính sử, chẳng ai cần kể tên. Nhưng bên cạnh chúng vẫn có những Nguyễn Lữ, những Trịnh Bồng, thẳng tay vất bỏ quyền lực. Có những Ngô Th́ Nhậm, chịu chết v́ trận đ̣n thù trên sân Văn Miếu chứ không trốn chạy, chết để bảo vệ lư tưởng của ḿnh. Có những Trọng Thức, suốt một cuộc sống chỉ lao tâm vào một việc là t́m ra phương pháp mang lại cho xă hội cách xây dựng nền công chính. Có những Dương Quang, kẻ hát lên giục những con chim đập cánh sổ lồng để bay cao, bay xa. Có những Đặng Thị Mai bỏ cả đời ḿnh vào để xoa dịu nỗi đau đớn bất hạnh của những người cùi hủi.

Đẹp thay, có biết bao nhiêu những người vô danh mang t́nh nhân ái đùm bọc con người. Hy sinh thân ḿnh cho con người, kể cả những kẻ cùi hủi, sự hy sinh đó cao quí và thiết thực chứ chẳng mù mờ như là hy sinh cho quê hương đất nước, cho tổ quốc thiêng liêng, cho lập trường ư thức… Đó là loại ngôn từ khẩu hiệu, nhiều khi chỉ ngụy trang tư lợi, dễ mang ra đánh lận người đời đưa họ sa vào cảnh máu rơi lệ đổ để phục vụ cho những thế quyền... Và quan trọng trên hết mọi sự là có những Quốc Thư, cái tuổi trẻ kia, lớp kế thừa và đồng thời là động cơ thúc đẩy sự sống c̣n của cả dân tộc. Nghe lời cha, Thư sau này đặt tên con trai là Nguyễn Trường Tộ. Đến thời Tự Đức, Tộ đă dâng lên triều đ́nh nhà Nguyễn hàng loạt những bản điều trần để canh tân đất nước. Rồi sau Tộ, biết bao nhiêu là những người con khác tiếp tục dấn thân cho một tương lai sáng sủa và tốt đẹp hơn.

V́ tương lai ấy, với mỗi người trong chúng ta, sự sám hối không thừa. Dẫu chỉ là sám hối trong một khoảng khắc, ta sẽ thấy được chính ta. Và giây phút kỳ diệu đó đủ gột sạch những nơi tâm tư c̣n mang nỗi ân oán có vấy dăm ba lớp bụi lầm của lịch sử.

Nhật tiếp tục tụng niệm những lời Kinh sám hối của mọi tôn giáo, mọi ngôn ngữ. Thoáng ngửi thấy mùi hương của một loài hoa lạ, chàng hé mắt ra nh́n. Ơ ḱa, râu tóc chàng đă trắng xóa, rủ xuống ḍng sông Mê tung tóe bọt nước trên hai bờ, trôi đi, trôi đi. Lỗ huyệt xưa để mả tổ tiên họ Hà nay đă lấp đầy đất, những cây rạc cao lên quá đầu người. Nhưng sao lại có hoa ? Hoa ǵ mà lạ thế ? A di đà Phật. Nhật lại nhắm mắt, tiếp tục tụng niệm, ḷng thanh thản dần, nhẹ hững đi như ánh nắng vàng mầu nhiệm khiến muôn loài tái sinh. Cứ thế, dễ đến hai trăm năm. Lần sau cùng, khi Nhật hé mắt nh́n, những cây rạc trên bờ huyệt đang hóa thân thành một loại cây đong đưa những cánh hoa cong ḿnh vươn lên phía có ánh sáng.

Nhập thành một với vũ trụ, Nhật nghe âm vang trong ḷng lời kinh mỗi lúc một thiết tha :

Nam mô quy y Kim Cang Thượng Sư

- Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sinh thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng.

- Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sinh thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển.

- Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sinh thống lư đại chúng, hết thảy không ngại.

Trời cao vút xanh, xanh biếc. Mây trắng trôi theo nhau, lơ lửng, khoan thai, quyện vào rồi lại tan ra. Đằng xa, một đàn chim âu cả trăm con tung bay, cánh óng ánh màu lửa thắp sáng không trung. Văng vẳng có tiếng sáo. Lại tiếng sáo diều hệt như tiếng sáo xưa ở Phố Hiến. Trong không trung, tiếng ai từ trên cao vọng lại :

Mi nghe tiếng sáo người mà chưa biết nghe tiếng sáo đất ? Mi nghe tiếng sáo đất mà chưa nghe biết tiếng sáo trời ? Ḱa gió thổi nên muôn tiếng nghe không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi, hoặc nó tự gào lên, ấy là ai ?

Rừng rạc lá sắc như dao đă lác đác hồng. Hoa ǵ đây ? Lạy đấng Hóa Công, trời đă vào Xuân. Ḱa, cả một rừng lá rạc đă hóa thân thành rừng hoa đào. Ô hay, lá rạc có thật hay không? Tên nó không thấy có trong bất cứ quyển từ điển Thảo Vật nào. Nhưng hề chi, v́ hoa đào có thật. C̣n loài hoa mầu hồng thắm kia, vào mùa Xuân, ta cứ gọi nó là hoa đào, mặc dù hoa ngào ngạt thoảng về một mùi hương rất lạ.

Cùng những lời Kinh sám hối, nước cứ trôi về cuối sông Mê rồi ra biển rộng. Nếu đúng vậy, lời nguyền của Chế Mân hẳn sẽ hóa giải vào năm hai ngàn lẻ hai hay lẻ ba.

Huyền Trân là một nhân vật có thật trong lịch sử. Chế Mân cũng có thật. V́ thế, những lời nguyền không phải là chuyện tưởng tượng mà là có thật. Thật như xác quyết rằng chỉ có sự tỉnh thức mới làm tiêu ma đi cái nghiệp chướng đă từ hai trăm năm qua vẫn cứ đâu đây ám ảnh.

Nam Dao

5-10-1998