NamDaoCaoXuanHao

 

Nam Dao

Cao Xuân Hạo,  những nỗi niềm và trăn trở…

 

Tôi gặp anh lần đầu khi cùng Trịnh Công Sơn đến thăm anh ở Phú Nhuận. Trưa hôm đó, con gái anh và chị Thanh đang c̣n tuổi ô mai, đ̣i chú Sơn hát Ở Trọ cho nghe. Anh ngồi, gật gù, cười nửa miệng với phong cách nho nhă ngày càng ít thấy. Sơn hát xong, anh ôm đàn, đáp lễ. Anh cũng hát, một bài thời anh tham gia kháng chiến, giọng trong và khoẻ, ngân nga luyến láy như ai. H́nh như đó là bài có những câu như ‘’ chiều nay trên chiến khu trong rừng chiều, bên đèo tiếng suối reo…đạn bay vèo’’.  Năm đó, năm 1982.  Trên tập Về Kinh Bắc chỉ chính thức được in đàng hoàng năm 94 anh Hoàng Cầm tặng tôi, anh  ghi:  để nhớ  một năm đầy hạnh phúc và oan  nghiệt. Hạnh phúc, tôi yêu, rồi tôi quưnh quáng lấy vợ, quà tặng của anh Cầm là tập Về Kinh Bắc anh nắn nót chép tay cho tôi. Oan nghiệt, khi ra phi trường Tân Sân Nhất, người ta cộp tôi lại, rà soát xem tôi có mang văn hóa phản động ra ngoài không? Tập thơ anh Cầm tặng tôi gửi lại một người bạn. Bạn tôi gửi lại một  người  bạn khác. Và sau cùng, chính Cao Xuân Hạo là người giữ để sau này trả về cho nhà thơ, người  bị tù chẳng  phải v́ tuồn tập thơ ra hải ngoại mà v́ cái tội bán rượu lậu (?!). Chuyện xưa, xưa như Diễm. Nhắc lại, v́ nhớ Hạo, và cái không khí nặng nề của những năm tháng ngột ngạt thời cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên … thiên đường ‘’mù’’, tên một cuốn tiểu thuyết vào những năm đổi mới sau này.

Đổi mới, tôi thôi bị (được ?) cấm cửa, về Hà Nội năm 88. Lại có dịp gặp Hạo từ Sài G̣n ra, và lê la với Dương Tường, Phan Ngọc. Thời đó, báo chí hô khẩu hiệu thời thượng  ‘’đậm đà bản sắc dân tộc’’. Tôi không nhớ Hạo hay Phan Ngọc dí dỏm dịch qua tiếng Pháp là ‘’imbus du caractère national !’’.  Với Hạo, tôi có dịp gặp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, khi đó chưa tiếng tăm. Hẹn nhau, tôi đến nơi Hạo ở tạm th́ đă có TM, một người bạn của anh. Lát sau, Thiệp và một anh bạn vào. Chuyện tṛ với TM, tôi không để ư lắm đến người mặt mũi khắc khổ sần sùi th́ thào to nhỏ với Hạo. Khi anh ta và bạn về, Hạo bảo : ‘’ …đặc biệt đấy! Viết rất hay! ‘’. Th́ ra nhà văn đến trao đổi với Hạo về dăm ba tác phẩm chưa in. Tôi hỏi, Hạo cho mượn bản thảo (trí nhớ tôi nay tồi, nhưng có thể là Thương Nhớ Đồng Quê và Ngọn Gió Hua Tát?). Đọc và dăm ngày sau tôi đi t́m Thiệp ở một cơ quan phát hành sách gần nhà Dương Tường ngơ Phan Huy Chú, sau tôi c̣n rủ rê nhà văn đi ‘’rượu chè ‘’  ở tư gia đạo diễn Thanh Tú nhân dịp chị làm lễ cúng sao giải hạn.  Ngày ấy nhà văn c̣n rất dễ mến, hồn nhiên thủ thỉ : ‘’  anh lôi tôi, tôi mới đi chứ tôi ít giao du!’’, chứ ai ngờ ít lâu sau ‘’người ‘’ trở thành chủ quán nhậu Hoa Ban danh trấn giang hồ.

*

Phải bốn năm sau tôi mới gặp lại Hạo, lần này ở Paris. Oan nghiệp thế nào mà tôi đă tưởng ‘’mút mùa’’ khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, nên gặp nhau, mừng mừng tủi tủi những chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người,  chuyện ngợm. Collège de France mời, anh đi và bảo đây là lần đầu được  qua một xứ Tây Âu, có lẽ nhờ cuốn Phonologie et linéarité. Reflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (1985) anh in bên Pháp đă có tiếng vang. Trong những  ngày nghỉ, chúng tôi  lang thang, khi trên bờ sông Seine khu Quartier Latin, khi th́ Monmartre, gần một cái appartement cô em Hạo để Hạo trú ngụ. Thời đó, Hạo rất năng động, viết lách khá nhiều, hăng hái làm việc với Tiểu ban Việt học Đại Học Tổng Hợp T.p Hồ Chí Minh,  hào hứng  thúc đẩy và xây dựng  Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ…Tâm sự, anh bảo nay chỉ mong ước một chuyện, là tiếp tục nghiên cứu và  góp phần đào tạo một số anh em quan tâm đến tiếng Việt.  Và như mọi lần, anh lại than tiếng Việt bây giờ ngọng nghịu bởi viết với ngữ pháp tiếng Tây. Anh cho rằng chữ quốc ngữ ABC giữ được âm nhưng làm mất nghĩa, học th́ lợi là nhanh nhưng hại ở chỗ mù mờ khiến kiến thức thường dàn trải mà không sâu. Anh lan man qua những vấn đề chuyên môn, cho rằng Âm vị học  khai triển ở phương Tây  không thể dùng để phân tích những ngôn ngữ như tiếng Việt ta, vốn đơn âm, và cứ mỗi âm tiết (tiếng) là một đơn vị ngôn ngữ, không thể phân tích ra thành những âm tố,  rồi nhiều âm vị,  trong  một  cấu trúc  ngữ pháp  Âu châu  mà mỗi tiếng có thể gồm nhiều yếu tố có ư nghĩa khu biệt. Trước niềm say mê của anh, tôi nghe. Dĩ nhiên như vịt nghe sấm, nhưng chẳng sao, cái anh truyền đạt được cho những người nghe anh nói là sự trân quí tiếng mẹ đẻ và tấm ḷng trung trinh với văn hóa.  Học thầy không tầy học bạn. Học giá trị sống, học cách làm người, ḷng đam mê. Học những niềm hy vọng. Và cả những nỗi trăn trở.

*

Cuối 98 đầu 99, tôi qui cố hương sau thời cái thân ḿnh lại bị ‘’cấm vận’’ 8 năm. Gặp Hạo, vẫn trẻ măng, vẫn phong nhă, vẫn cứ một  niềm say mê. Kể chuyện vui : sau giờ lên lớp của Hạo, chúng tôi ngồi uống bia ở một cái quán trong khuôn viên Đại Học Tổng Hợp T.p HCM. Cô tiếp viên quen mặt Hạo, gọi bằng thầy, đi qua đi lại ‘’phục vụ’’ khá chu đáo, cứ như ‘’khách hàng là Thượng Đế’’, ngay cho đám thầy tṛ nghèo rớt chỉ biết thưởng thức bia hơi và đậu phọng. Đợi Hạo vào toa-lét, cô đến gần hỏi : ‘’Anh công tác ở Hà Nội?’’.  Tôi gật, đá lông nheo, cái thói cứ có dịp là đùa nghịch. ‘’Anh zô luôn hay đi công tác ngắn hạn ?’’. Tôi đáp : ‘’ zô luôn, sống ngoải cực lắm!’’. Thấy tôi  bắt chước tiếng Sài G̣n, cô cười : ‘’ Chắc ngày trước ông bà già đi tập kết hả?’’ . Tôi lại gật. Khi đó, Hạo ra và cô tiếp viên lui về đứng tựa quầy hàng.  Cô liếc tôi, cứ tần ngần, lát sau mang ra mấy điếu ba số, lúng túng : ‘’ Em mời thầy, mời anh, hút cho vui! ‘’. Hạo ngạc nhiên. Đợi cô tiếp viên đi, Hạo cười tinh quái, bảo cô ta nhẵn mặt thầy mà nay mới mời thuốc, chắc chẳng phải v́ thầy mà v́ anh. Nh́n tôi ḍ hỏi, thấy tôi lắc đầu :  ‘’ Nghịch ngợm ấy mà, kiểu anh hùng thấy chuyện …qua  đường…  chẳng tha,  nhưng chỉ thế thôi!’’, Hạo hỏi : ‘’ Ông có đọc Zorba the Greek chưa?’’. Cười ha hả, Hạo tiếp : ‘’ Zorba nói, khi một người đàn bà đến anh dâng hiến t́nh yêu mà anh quay lưng, th́ anh có biết thế là anh báng bổ thần linh không? ‘’. Ôi chao, nhưng tôi biết làm chi đây? Nh́n lên, ảnh Bác vẫn đó, Bác sống măi trong sự nghiệp chúng ta. Nh́n xuống, cái thân ḿnh Việt Kiều bước đi một bước giây giây lại dừng và …nh́n về đàng sau, tôi ngậm ngùi lẩy Kiều :  Zorba th́ mặc Zorba. Quan trên trông xuống , người ta  trông vào…Thôi ông ạ, ta đi…’’.

*

Hoà hợp trong-ngoài tùy giá máy bay về nước, thời gian thoát được chuyện áo cơm, lại phụ thuộc vào độ phập phồng mở ra đóng vào trong ‘’ hoàn cảnh’’ đối ngoại nên năm năm sau tôi mới gặp anh. Lần này, công ty văn hóa Phương Nam đă mua lại tác quyền toàn bộ tác phẩm của anh, hẳn đời anh ‘’tươi’’ hơn ít nhiều. Anh không c̣n ở đường Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận mà dọn đến phố Phạm Văn Chiêu ở G̣ Vấp. ‘’ Lạ thật, ông Bánh rồi ông Chiêu lấy làm tên đường, nhưng ông có biết họ là ai không? ‘’, tôi hỏi. Hạo lắc đầu, đăm chiêu ‘’…Chuyện lạ th́ đất nước này nhiều lắm!’’. Anh mang ra cuốn Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt (Nxb Trẻ, 2003),  giở  trang 333, bài nói Về tính hiếu học…, đọc một  đoạn cho tôi nghe :  mục Viết Nhịu trong tạp chí Ngôn Ngữ & Đời sống của hội Ngôn ngữ học Việt Nam kê ra vài trăm lỗi viết về tri thức cơ bản thường thấy. Trong các sách giáo khoa đại học, có thể t́m ra 2000 câu lỗi như thế, và trên căn cứ có kiểm kê, khoảng 72% sách đại học đều chứng tỏ người viết không biết đến những tri thức  ngôn ngữ sơ đẳng. Cuốn ‘’ Nhập môn ngôn ngữ học’’ được  mang giảng dậy ngang nhiên phủ nhận tất cả thành tựu của ngành Ngôn ngữ học của toàn nhân loại, và lấy tư cách Chủ tịch  Hội đồng Khoa học Viện Khoa học Xă hội  tại T.p HCM, năm 1997 Hạo gửi thư cho ông Giám đốc Trung tâm Khoa học Xă hội và Nhân văn  cùng ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo một thư dài kèm 200 trang tư liệu minh chứng, để kiểm tra và kết luận  về tác hại của cuốn sách đó. Nhưng đến nay, tức 7 năm sau, vẫn chẳng có hồi âm, kể cả công văn báo đă nhận thư cũng không có!

Hôm đó là ngày mồng hai Tết GiápThân năm 2004. Đáng lẽ phải vui xuân, chúng tôi lại lẩn thẩn nói những chuyện cực ḷng. Ngay cả đối với những giáo sư ngôn ngữ, chẳng lẽ họ lại coi thường tiếng mẹ đến thế sao? Họ chắc phải biết ngôn ngữ là lớp trầm tích sâu nhất của văn hóa, khai quật th́ có thể soi rọi cách sống, từ tư duy, cảm nhận đến những quan hệ ứng xử giữa người với người, giữa cá nhân và cộng đồng…Lơ là để cho ngôn ngữ thành một  thứ tạp nham dị dạng vô hồn, có thể nào, tôi  nói liều, cả dân tộc này mắc chứng trầm cảm tập thể, giải quyết bệnh tâm thần bằng cách xô nhau làm giầu ăn xổi để khỏi suy nghĩ, hệt  trong một xă hội tiêu thụ vinh danh khách hàng như Thượng Đế, vong thân biến chính ḿnh thành một món hàng không hơn không kém?

Trong tương quan giữa ngôn ngữ và văn hóa, tôi đặc biệt quan tâm đến những đại từ nhân xưng, trao đổi với Hạo dịp đó, và hứa sẽ đào sâu sau này. Ở ngôi thứ nhất dạng đơn có tính trung ḥa, ngoài tôi, ta, tao, tớ, mỗ  có tính hồi chỉ chính danh th́ có lẽ đến 90% trong đời thường người Việt chúng ta dùng ngôi vị thân tộc và tuổi tác (con, cháu, anh, em…) để xưng hô. Ở dạng phức, ta ghép thêm từ  chúng vào ta, tôi, tao. Ở ngôi thứ hai, ngoài từ mày, mi, bay, xưng  hô phần lớn tùy tuổi tác (cụ, ông, cha, mẹ, anh, em),  chức năng hoặc cương vị ( bác sĩ, giáo sư, ngài…), thường ở dạng đơn, thêm những hoặc các hoặc tụi hoặc bọn để  chỉ  dạng phức ( nhưng xin lưu ư các anh, chứ chúng anh lại chỉ ngôi thứ nhất). Với hai ngôi này, rất ít đại từ có tính trung ḥa được dùng trong đời sống, khác hẳn với những ngôn ngữ phương Tây ( je, moi, tu, toi, nous,vous (tiếng Pháp), I , you  (tiếng Anh) …) hoặc trong tiếng Trung Quốc ( ngổ, nỉ…áp dụng một cách phổ biến ngay trong quan hệ gia đ́nh giữa bố mẹ anh em). Nếu mày, tao được xữ dụng giữa bè bạn th́ chúng(tụi,bọn) bay, chúng(tụi, bọn) mày, chúng ( tụi, bọn)  tao (ta) thường chỉ những quan hệ những nhóm có ít nhiều đối kháng cành cựa với nhau. Đặc biệt hơn hết là nhân xưng trên cơ sở tuổi tác, địa vị, và liên hệ trên-dưới có tính thân tộc vừa miêu tả  tạo ra một tương quan bất b́nh đẳng giữa những con người. Tác động tốt của nhân xưng thân tộc (cha mẹ cô chú anh em) một cách đại trà như thể mọi người cùng thuộc một gia  đ́nh là tạo ra liên kết t́nh cảm, nhưng mặt tích cực đó có thể bị triệt tiêu v́ hai yếu tố. Thứ nhất, cái liên kết trên ảo; nó thể hiện một sự mong đợi trông chờ chứ không phải một hiện thực, và đẩy đến một cực nào đó, nó là sự giả trá chấp nhận như một qui ước. Thứ nh́, nhân xưng ở ngôi thứ nhất tự thân bị những ràng buộc trên-dưới, ảo-thực…nên khó có thể phát huy trọn vẹn cái tôi  cá  thể  bị kiềm tỏa trong ngôn từ xưng hô phản ánh trật tự (thậm chí, đạo đức) của xă hội dựa trên nền tảng gia đ́nh thị tộc [1].  Cái nền tảng đó do truyền giống nên tự nhiên và bất biến, hệ luận là từ cách xưng hô đó, cái trật tự kia cũng vậy, và con người  xử dụng nó vô h́nh chung bị vi khuẩn ‘’bảo thủ’’ ngấm vào đến tiềm thức, ứng xử thụ động trước mọi quyền lực ngoại tại.

Nhưng đáng chú ư là những  đại từ nhân xưng ở ngôi thứ ba. Tôi rất khó chịu khi phải xử dụng nàngchàng, nghe nó cứ như ‘’làm sao ấy’’, hơi ‘’ sên sến’’, lắm khi dùng không  khéo th́ phá tan nát cái không khí văn chương.  ‘’Thiếu ǵ từ khác’’ , Hạo đáp. Hết thời gian nên chúng tôi phải chia tay, tôi hứa sẽ ‘’lạm’’ bàn với Hạo lần gặp sau.

Ở ngôi thứ ba, ngôn ngữ ta quả không thiếu ǵ đại từ nhân xưng ở dạng đơn: giống đực : y, hắn; giống cái : ả, thị ;  trung tính : nó,va (?), nghỉ…chẳng hạn. Từ va  và nghỉ  hoặc là tiếng địa phương, hoặc là tiếng cổ, nay không c̣n thông dụng. Ở dạng phức, chỉ c̣n  chúng( bọn, tụi) nó . Nhưng mỗi  đại từ trên đều mang một nghĩa hàm ẩn, thường là nghĩa xấu. Thị, ta liên tưởng đến tôi đ̣i, quê kệch. Ả, tất ả giang hồ, đám xướng ca. Y,  có vẻ ǵ như hiểm hóc, tối tăm. C̣n hắn, đỡ hơn v́ ít xách mé, nhưng chắc chắn xa lạ.   Tóm lại, với những đại từ nhân xưng ngôi thứ ba vừa nêu lên, tính cách và thậm chí  bản chất khác với chủ thể hiển ngôn ở ngôi thứ nhất. Nó thường hàm ẩn sự đánh giá, từ khinh miệt, xách mé đến xa lánh, và chuẩn mực ‘’đạo đức’’ ngầm gắn vào danh xưng khiến chúng mất tính trung ḥa, tạo ngay những  định kiến  tác động lên quan hệ với đối tượng ngôi thứ ba.  Tưởng tượng một cuộc thoại giữa tôi với anh  về một đệ tam nhân, gọi là hắn, là , là y, là hay là thị ở ngôi thứ ba. Danh xưng không thôi cũng có tác động chia rẽ phân liệt : cách gọi nào cũng đều hàm ẩn đánh giá đối tượng này. Bây giờ, giả thử có 3 người  và những cuộc đối thoại song phương về một người thứ ba. Đánh giá hàm ẩn qua đại từ nhân xưng gấp lên ba lần,  tỉ lệ thuận với khả năng chia rẽ phân liệt cái cộng đồng ba người đó, tạo ra  xúc tác cho những tị hiềm ganh ghen.  Và có phải chính v́ thế mà cứ có một người Việt th́ công việc chạy hơn với hai người người  ngoại quốc (người  Nhật chẳng hạn),  trong khi có ba người Việt th́ lại không bằng chỉ với một người  ngoại quốc ( như người Nhật chẳng  hạn)  như trong chuyện tiếu lâm tân thời. Ngôi thứ ba dạng phức cũng vậy.  Chúng (bọn, tụi) nó  có cái ǵ đó không thiện cảm chút nào, chẳng những xa lạ mà c̣n như đe dọa. Và chính v́ vậy mà chúng ta lúc nào cũng phải đối phó với chúng nó,  khi th́ lao vào chiến tranh, lúc ḥa b́nh th́ ta dùng mẹo trong ngoại giao, trước sau bất tất cứ phải như một. Ở ngoài nước, t́nh trạng phân chia phe nhóm chúng ta - chúng nó hầu như có trong tất cả mọi cộng đồng rải rác khắp nơi. Chỉ khi  chúng nó là một đe doạ thực sự th́  chúng ta  mới đoàn kết được.

*

Tôi vừa đưa ra giả thiết rằng tính chất hàm ẩn của đại từ nhân xưng ngôi thứ ba có thể là một (một  thôi, xin nhấn mạnh) trong những yếu tố  giải minh tính chia rẽ phân liệt giữa người Việt với nhau. Điều này, chúng ta có thể kiểm nghiệm qua lịch sử những cuộc nội chiến trong quá khứ, và hiện tượng phe-nhóm tràn lan ở mọi nơi, trong mọi thời điểm, từ trong ra ngoài nước.  Cũng xin nhắc, giả thiết này không đề đạt một liên hệ nhân-quả,  chỉ thuần là một giả thiết về tương quan giữa ngôn ngữ với văn hóa và xă hội mà thôi. Trong tham luận ‘’ Ngôn ngữ học có thể đóng góp ǵ vào việc t́m hiểu tư duy và văn hóa Việt Nam?’’ đọc tại Hội Nghị Quốc tế về Các Giá Trị Văn Hóa Phương Đông  ở Hà Nội năm 1999 [2], Cao Xuân Hạo đề nghị 7 vấn đề , hoặc hệ vấn đề, mà khi được giải quyết thích đáng sẽ dẫn  đến những t́m ṭi xa hơn. Anh viết : 1 …2…nhưng tôi xin chỉ kể :

7- Tại sao, và tự bao giờ, các thuật ngữ chỉ quan hệ thân thuộc được dùng thay cho các đại từ nhân xưng, các đại từ nhân xưng hồi chỉ chính danh trở thành vô lễ, và rốt cuộc  trong tiếng Việt khôngc̣n có đại từ nào (kể cả đại từ hồi chỉ) có tính trung ḥa…nữa? Hệ thống đại từ này có ảnh hưởng như thế nào đối với các quan hệ giữa người với người trong xă hội Việt Nam?

Là người’’ngoại đạo’’ ngành ngôn ngữ, tôi vẫn đánh liều thử ‘’ lạm’’ bàn, lẽ ra là chỉ với Hạo lúc sinh thời, nhưng nay quá muộn nên đành viết ra  để  thay một  nén hương thắp lên cho bạn. Đó là cách cá nhân tôi trả nợ, nhưng điều này nhỏ, tôi chỉ hy vọng làm xúc tác cho một cuộc t́m ṭi nghiêm túc và có hệ thống.

Chuyện lớn hơn, tôi nay xin thưa. Tháng 8 năm ngoái, năm 2006, tôi lại gặp Hạo. Lần này, rơ là anh hơi tiều tụy, trầm ngâm hơn, nhưng lúc chuyện tṛ, anh vẫn giữ được chất lửa khi nói về những nỗi niềm và trăn trở. Trăn trở, anh lo chuyện lạm phát phi mă những mảnh bằng Tiến sĩ, Phó Tiến sĩ. Những chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư. Anh sợ định luật Graham, như với tiền giấy hồi thế kỷ thứ 17 bên Âu Châu, ‘’la mauvaise monnaie chasse la bonne’’ [3] . Anh than văn, báo chí tự thân có trách vụ văn hóa và giáo dục, nhất là với ngôn ngữ v́ phần lớn người ta có đọc là đọc báo. Nhưng khốn thay, đội ngũ làm báo tắc trách, đáng lẽ nâng lên th́ lại làm ngôn ngữ xuống cấp, mất ngữ nghĩa, mất trong sáng…mà tôi lấy một thí dụ điển h́nh trong phụ lục dưới đây.

C̣n về nỗi niềm của anh, tôi xin chỉ kể ra đây một.  Hỏi Hạo về khả năng nhóm cộng sự và môn sinh tiếp tục đào sâu những vấn đề học thuật anh chưa giải quyết được, anh trầm ngâm rất lâu, lát sau nói : ‘’ Ḿnh cũng kỳ vọng ở họ rất nhiều, nhưng khả năng đâu chỉ tùy thuộc họ, nhất là ở cái buổi ‘’ hội nhập’’ này, anh em làm khoa học  đâu mang rao bán được cái ǵ trong kinh tế thị trường! ‘’. Mắt sáng lên, anh nói về một bộ những cuốn sách giáo khoa anh đă cùng họ soạn thảo với hy vọng thay thế những cuốn sách quái dị kiểu  ‘’Nhập môn Ngôn ngữ học’’ đă kể ở trên, hy vọng đem tiếng Việt thuần khiết chứ không sao chép ngữ pháp Âu Châu trả về cho người Việt. Theo một bài phỏng vấn Cao Xuân Hạo trong báo Xuân Lao Động năm 2003 [4] th́ :

Hỏi :

Thời hội nhập, tiếng Việt có cần tuân theo những quy tắc truyền thống quá cứng nhắc nữa không; hay cần đơn giản hóa, thưa ông?

 Đáp :

Làm sao tiếng Việt chấp nhận những kiểu nói của tiếng Châu Âu? Tôi không hẹp ḥi, nhưng rơ ràng có một điều kiện tiên quyết và quyết định là đừng làm mâu thuẫn những quy tắc ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt. Duy nhất trước đây có Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đặt vấn đề về một trong những quy tắc mà ngay chính các nhà ngôn ngữ học cũng không giải thích được, chỉ dùng theo bản năng. Nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là hiển ngôn hóa những ǵ mà em bé năm tuổi chưa hiển ngôn được. Tôi đă viết gần xong 300 quy tắc như thế cho riêng tiếng Việt.

Tôi không biết các anh đă soạn xong bộ sách chưa, và nếu xong, những cơ quan chức trách khu xử thế nào. Riêng ḿnh, tôi cầu mong cho nó đến được tay những sinh viên, học sinh, những nhà văn  nhà thơ, những biên tập viên, những nhà báo, và các ngài, ngài Tổng Bí thư, ngài Chủ tịch Nước, ngài Thủ Tướng, và vân vân.

Chia tay Hạo năm ngoái, tôi leo lên ngồi sau Honda của một người bạn, quay lại vẫy. Anh đứng trên lề đường, nh́n theo, và cười, vẫn cái cười phong nhă. Hẹn ḥ gặp nhau nay khép lại, vĩnh viễn. Mở cuốn sách anh đề tặng,…, để nhớ những lần gặp nhau ( về rất nhiều phương diện),   tôi không khỏi bùi ngùi. Nhưng Hạo ạ, sống ở thác về. Sống thế nào, anh đă sống toàn vẹn. C̣n thác, th́ chuyện dĩ nhiên ấy mà. Và nơi về với một con người đă sống toàn vẹn là ḷng những người ở lại.

 

Quebec

 21-10-2007

 

___________________________________________________

Phụ lục : Nhặt cỏ dại một bài báo trên webb  của BBC tiếng Việt ngày 19-10-2007:

Theo truyền thống nhặt cỏ dại, c̣n gọi là bắt sâu, trong báo chí, tôi xin làm công việc này với một bài báo (có thể đây chỉ là một trường hợp đơn lẻ). Những chữ hoặc câu có gạch đít là để lưu ư, phần trong ngoặc là cách tôi hiểu và đề nghị thay thế, hoặc giản dị là tôi không hiểu! Không phải có hậu ư phê phán BBC mà tôi đă được đọc những bài viết công phu và có chất lượng, tôi làm cái việc nhổ cỏ dại này chỉ nhằm thể hiện nỗi lo âu của những người thấy ‘’tiếng Việt xuống cấp tới mức trầm trọng’’, trong  đó có G.S  Cao Xuân Hạo, người đă lên tiếng đánh động nhiều lần.

___________________________

Người tiên phong DNA bị đình chỉ

Tiên phong  cho cái ǵ? Phải chăng: người tiên phong trong nghiên cứu về AND?

Đ́nh chỉ ǵ? Công sự, hợp tác ?? Đọc tựa, tôi không  thể đoán ra  nội dung. Đọc cả bài báo, tôi hiểu thế này:

Đ́nh chỉ cộng sự của người tiên phong trong nghiên cứu về AND

Cái tựa đề thêm 7 chữ, nhưng rơ nghĩa và tóm lược được  nội dung bài báo

 __________________________

Ông Watson nhận được những lời chỉ trích gay gắt vì những nhận xét của mình trên một tờ báo củacó cần không?) Anh vào cuối tuần trước.

Trong bài phỏng vấn, ông được trích dẫn đã nói rằng người Châu Phi kém thông minh hơn người Châu Âu.

Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor đã cho biết họ không có liên quan gì những lời nhận xét của ông, nhưng hội đồng quản trị đã đình chỉ ông.

 (Đ́nh chỉ một sự việc nào đó, chứ đ́nh chỉ một người th́ là ǵ? Bắt, giam, thải…???.   Đề nghị:  …đă đ́nh chỉ cộng tác với (hay cộng sự của) ông)

Hoàn toàn xin lỗi

Ông Watson theo lịch sẽ có một bài diễn thuyết tại bảo tàng Khoa học ở Luân Đôn hôm thứ Sáu trong tour lưu diễn  ( lần  ra mắt? ) sách của ông. Nhưng bảo tàng này đã hủy bỏ hoạt động này và ( v́?) cho rằng nhà khoa học đã đi quá xa trong cuộc tranh cãi.

Liên hoan Ý tưởng tại Bristol cũng hủy bỏ sự có mặt của ông Watson.

Ông Watson cũng nhận được lời chỉ trích gay gắt từ phía giáo sư Craig Venter, một nhà khoa học và cũng là một doanh nhân đã có những nỗ lực cá nhân trong việc giải mã gen ( gien,, chuyển âm  cho đúng  với tiếng Việt)   và cũng tình cờ tới thăm Anh để quảng bá một cuốn sách. (Trong 1 câu mà 3 lần cũng  !)

Ông Venter nói: “Màu da đại diện cho chủng tộc là một khái niệm xã hội, không phải khoa học.” “Không có cơ sở khoa học nào về việc gen quy định màu da ở người ảnh hưởng tới trí tuệ.”

Trong bài phỏng vấn với tờ Sunday Times, giáo sư Watson giữ nỗi ảm đạm cố hữu về triển vọng của Châu Phi vì “tất cả những chính sách xã hội đều dựa vào việc họ có chung trí tuệ với chúng ta – trong khi các thí nghiệm không cho thấy điều đó”.  (ảm đạm là một  tĩnh từ,  đưa thêm nỗi vào biến nó thành danh từ nhưng tôi nghĩ  không thích hợp lắm. Xin đề nghị :  GS Watson giữ sự bi quan cố hữu về….)

Ông còn cho biết thêm ông hi vọng mọi người đều bình đẳng nhưng “có lẽ những người phải đối phó  (đối phó cái ǵ ? ) với những nhân viên da đen thì đã không tìm thấy điều này”.  (Đề nghị:  … những người phải chung đụng với…. Đoán chơi cho vui: tôi chắc biên tập viên bài báo này dịch thẳng   to deal with  ra  phải đối phó )

Kể từ đó  (?, sau đó ? )  nhà khoa học đã nói “Tôi có thể hiểu được tại sao những người đọc những lời lẽ đó lại phản ứng như vậy,”

“Gửi tới tất cả những người đã hiểu rằng Châu Phi, với tư cách  một châu lục ( tư cách là tính cách riêng tư, thường là của một người. Chữ tư cách  ở đây có thể giản dị thay bằng  như là một châu lục,)  có phần thấp kém hơn về mặt di truyền, tôi hoàn toàn xin lỗi.”

“Tôi không có ý như vậy. Quan điểm của tôi là, không có  (cơ?) sở khoa học nào cho việc tin tưởng ( như) vậy.”

Nỗ lực khoa học

Trong các lời phát biểu trên tờ The Independent hôm thứ Sáu, giáo sư Watson cố gắng làm trong sạch tình thế   (ông ta đi tắm? Chắc không  phải thế, có thể  là ông ta cố gắng làm minh bạch ư kiến)   của mình.

“Chúng ta chưa hiểu hiểu rõ cách thức các môi trường khác nhau lựa chọn gen quyết định năng lực làm việc của chúng ta.”  (  môi trường không thể lựa chọn! Tôi ngầm hiểu rằng thiên nhiên lựa chọn, và câu trên có thể viết như sau : Chúng ta chưa hiểu phương thức lựa chọn gien, điều quyết định năng lực làm việc, trong những môi trường khác nhau )

“Đây không phải là những thảo luận về việc hơn hay kém mà là để hiểu nguyên nhân của sự khác biệt, rằng tại sao một số người trở thành các nhạc sĩ tài ba trong khi số khác lại trở thành những kỹ sư giỏi.”

Giáo sư Watson là người đã cùng  ( với ai?) giành giải Nobel năm 1962 vì khám phá cấu trúc DNA

Gần 40 năm sau, các nhà khoa học đã có thể đọc được tất cả DNA trong tế bào của chúng ta và cho thấy không có cơ sở khoa học nào cho khái niệm chủng tộc.

Con người từ những nhóm chủng tộc khác nhau có thể giống nhau hơn về mặt gen so với những người trong cùng chủng tộc. Các nghiên cứu về gen cũng cho thấy có nhiều đa dạng trong gen của Châu Phi hơn bên ngoài. ( …cho thấy gien ở châu Phi đa dạng hơn ỡ những châu lục khác)

 

 



[1] Tham khảo bài ‘’Mấy vấn đề về văn hóa trong cách xưng hô’’ trong CX Hạo,  Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt ( Nxb Trẻ, 2003),  tr 315-322, trong đó tác giả chỉ ra cái sắc thái khiêm tốn cùa đại từ nhân xưng tôi, do nghĩa gốc ‘’tôi tớ’’, nhưng nay đă khá phai mờ. Cũng ở đây, xin trích (tr 320) : ….( Xưng hô kiểu ‘’gia tộc chủ nghĩa’’) …’’ đưa đến một không khí gia tộc hoàn toàn nhân tạo trong môi trường không cần đến không khí gia tộc. thậm chí không thể chấp nhận thứ không khí này, v́ nó quá thuân lợi cho chủ nghĩa con cháu (nepotism) và cho những thái độ kẻ cả của người này và thái độ khúm núm nịnh bợ của người kia. ‘’

[2] Sách đă dẫn, tr 305-313.

[3] Tiền xấu (giả, rách) đuổi tiền tốt ( thật, lành)

[4] Tiếng Việt: xuống cấp hay hội nhập? Lao Động, 27-01-2003