ViThoHC

MỘT VỊ THUỐC ĐẮNG,

MỘT VỊ THƠ....

 

1

Thế đấy.  Anh chép miệng cười.  Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt.  Anh bảo : «...nó vận vào người», lại rót rượu.

Đó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm.  «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đă cả năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày.  Tiếng nước reo ṣng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên.  Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim.  Tôi ngắm anh.  Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.

Anh quả là một người hào hoa.

    Chị đi đâu về.  Tôi đứng dậy.  Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước.  Tôi nh́n chị.  Chị quả là một người đàn bà đẹp.  So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng.  Có lẽ chị biết là ḿnh đẹp.

Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đă hẹn tôi rồi không đến một năm xưa.  Tôi nh́n anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này.  Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ṛn ră của họa sĩ Hoàng lập Ngôn «... muốn th́ đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !»  Ngồi trên chiếc ghế  đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ.  Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng.  Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ.  Như hát chầu văn.  Như rủ người nghe nhập đồng.

Quái lạ.  Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ.  Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh.  Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám.  Vâng, hiểu th́ chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn.  Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm.  Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa.  Nó thành những tác động tâm - sinh lư.  Nhịp tim không c̣n đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể b́nh thường.  Nhịp thở không c̣n đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ ǵ.  C̣n lớp tám ?  Tôi phải nói thế nào ?  Tôi biết  như kẻ có ḷng tin vào Thượng Đế, nhưng làm sao nói đây ?


 Tôi lẩm nhẩm «... Ta soi. Chỉ c̣n ta đạp lùi tinh tú.  Ngủ say rồi đôi cá đ̣ng đong».  Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những v́ sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt.  Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi ḿnh trong lạch nước, và an b́nh thay, đôi cá đ̣ng đong c̣n nhỏ bé hơn nữa đă ngủ say rồi.  Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ.  Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú.  H́nh ảnh đó c̣n bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao.  Ḥn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lư kiếp người của Camus.  Lăn đá là h́nh phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một v́ vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo.  Văn minh nằm ép dưới quyền lực.  C̣n luân lư, luân lư đă nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.

 H́nh ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đ̣ng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về t́m an nhiên bằng giấc ngủ của đ̣ng đong. May thay, đ̣ng đong vẫn có đôi. Đó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Đông khác Tây là vậy ?  Nhưng thế th́ sao «nó vận vào người» được nhỉ ?

2

Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió.  Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nh́n.  Ảnh có cụ Śn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đă khuất.  Có anh.  Có Duy.  Có tôi.  Những người vẫn c̣n.  Có chị Băng, dĩ nhiên.  C̣n có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Śn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi.  T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng.  Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm.  C̣n L, cô dạy học ở Hải Pḥng, nhưng nay đă lưu lạc đâu đâu bên Ḥa Lan rồi.  Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích.  Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm.  Tôi bảo «Chẳng biết các ông ấy gặp nhau th́ thế nào nhỉ ?».  Khi mời anh, Duy chỉ nói «...anh lên xem bức tranh cụ Śn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !».  Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Śn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh th́ thôi không đ́nh đám nữa.  Cụ yếu lắm rồi...».  Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa.  Lư do ?  Tôi kêu lên «...miễn bàn !».   Cả nước ḥa hợp ḥa giải.  Văn hóa th́ thế.  Một dúm tác phẩm.  Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nh́n mặt ông kia.  Con cháu sau này trông vào th́ sẽ nghĩ ǵ ?  Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !»  rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»

Tôi không hề hỏi  đến lúc  là đến lúc nào.  Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là  nên , thế nào là  không nên .  Bữa ăn nhà cụ Śn khá vui vẻ.  T và L chạy lên chạy xuống.  Cụ bà đi vào đi ra.  Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ư các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện.  Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch.  C̣n anh, anh hồn nhiên.  Cụ Śn mang  bức tranh cũ ra.  Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọâi mũ có đính sao.  Cụ Śn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy !».  Anh mơ màng «...đẹp và trẻ.  Có lẽ đẹp v́ trẻ...», mắt nh́n T và L đang cúi xuống thẹn thùng.  Quả thế.  Tôi cũng nh́n.  Cô giáo ở Hải Pḥng đằm thắm hơn.  Cô nh́n lại rồi chạy vụt đi.  Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại  mơ màng chút u uẩn than tro.  Cô làm vẻ thản nhiên, nh́n về phía sân, nơi nước ao đă tràn lên mấp  mé ven bờ.


Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông.  Cơi nhân duyên chập chờn oái oăm.  Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này.  Và chia với chúng tôi.  Mỗi kẻ một vẻ đời.  Làm lính.  Làm thơ.  Kéo đàn.  Dạy học.  Đến từ một bờ Đại Dương xa lắc bên kia.  Lên từ Cảng, quê hương của người tài t́nh thơng một câu thơ nhập « Sinh ra tôi đă có Hải Pḥng...» cho bản trường ca  Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hăm và hiếp văn học vào năm 1956. Đè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề  có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở ph́ pḥ, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời «...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo ǵ !».  Chữ đéo không thừa.  Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành th́ dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu c̣n trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ c̣n lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô.  Nhưng chuyện đă xưa rồi.  Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra th́ người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xă hội tươi đẹp. Có lẽ chính v́ vậy là đă đến lúc các ông ấy nên gặp nhau ?  Tôi ngây thơ nghĩ thế.  C̣n anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế.  Cụ Śn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đă cao.

 Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi.  Hẳn vô t́nh.  Giá mà cố ư nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Śn với Duy.  Hai đưa lau sàn xi măng đă lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn.  T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.

Tiếng ễnh ương bờ ao.  Vẫn gió.  Gió xào xạc.  Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc.  Tiếng cụ Śn ho.  Tiếng đập muỗi.  Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy.  Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ c̣n là một ḥn bi ve óng ánh màu hy vọng  một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đă là một kẻ có  niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và c̣n hy vọng nên mới viết được những gịng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đă bao trùm  cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.

H́nh như ai tḥ tay sang nắm lấy tay tôi.  Tôi để yên, ḷng ngậm ngùi, vờ ngủ.  Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T.  Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đă đi ra bến xe về Hải Pḥng.  Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Đại Dương bên kia.  Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu :  Em đi rón rén trời chưa sáng.  Bước động ao bèo bỗng hóa sông.

3

 Thuở đó anh biết tôi yêu thơ.  Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp.  Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng.  Là như bị thôi miên.  Là buông hết, và thả luôn đời ḿnh vào cái ḿnh yêu, hệt như những kẻ tử v́ đạo.  Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang h́nh tượng Đức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm v́ ḷng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.


Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp.  Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.»  Tôi bảo «Nếu phải xin phép th́ cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !».  Người ta trừng mắt.  Tôi quay lưng đi.  Người ta cho là tôi thách thức quyền lực.  Tôi th́ không.  V́ tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đă «đến lúc» v́ bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đă quá đọa đầy.  Đ̣i hỏi của hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ văng đă chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng.  Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng.  Nước ơi, chỉ có t́nh của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia.  Người ta lắc đầu nghi ngại.  Tôi đến chơi với anh.  Với Trần Dần, Lê Đạt.  Với Đặng Đ́nh Hưng.  Người ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ».  Tôi giật ḿnh.  Th́ ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đă trải và cái đẹp !  Nhưng tôi đă thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.

Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời.  Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà tḥ qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên.  Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ.  Anh kể :

«... Tên nàng cũng là Yến.  Chúng ḿnh lên đồi, mặt đất xanh ŕ, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà.  Nắng đă bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa.  Ngả ḿnh nằm xuống thảm cỏ, nàng nh́n, cái nh́n như bảo ban.  Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu ḿnh kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt.  Khi buông nàng ra, ḿnh đọc «Một con bướm lửa đậu môi».  Nàng nắm hai tay ḿnh kéo ra, miệng thầm th́ «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm».  Nh́n lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, ḿnh tiếp «Ba làn mây lửa về thăm».  Nàng như say sóng, ôm choàng lấy ḿnh để giữ thăng bằng trong một cơn băo biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc.  Ḿnh lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt.  Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».

Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật.  Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác...  Tôi tin lời anh.  Anh hồn nhiên nhận ḿnh là người may mắn.  Như vậy cái ǵ có thể lại «vận vào người» anh ?

 4

Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ.  Hiện tượng này nằm dưới tầng ư thức của chính anh.  Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính v́ thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc...  mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho ḿnh chép lại được.».

Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông.  Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ ḿnh được mấy bài ?».  Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Đợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi.  Đó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng.  Tôi đáp «năm, sáu bài...».  Anh cười «...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có năm thôi !». Thật ra c̣n bài U ǵ anh làm gửi cho Đặng Đ́nh Hưng.  Bài Đợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng th́ đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :

Mùa chưa về

Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ


Dăy tre xa giấu biệt giải khăn điều

Khi gậy nắng ăn mày đă quăng sau núi

Hàng tre nhà

                 yếm trả  

  Mẹ về

  lều dột đón mưa đêm

Th́ chị đi

    mấy lối chân chim

Để Mẹ về bao phương bèo nổi

Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi

Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại.  Tôi xin trích thêm một đoạn :

Em bước vào đ́nh

ôm cột bốn người ôm

Em rẽ sang chùa

lay chân hộ pháp

Sau chùa tát đêm một, chạp

Gầu giai ai vớt Chị ơi ḷa lơa thân trăng

Chị lỡ xe hồng

Mẹ đi lấy chồng

Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc

Mật vàng mọng rách vỏ nâu non

Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng ( đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ).  Và đây là đoạn cuối :

Có hôm Em lần xuống bếp

Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu

Một con mèo mướp ruỗi chân chiều

Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng

Tưởng như Mẹ về

Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa

Tưởng như Chị về

Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre

Bao giờ Chị về

tóc phủ vai Em chiều hương nhu

Bao giờ Mẹ về

Buộc yếm đào phai vỗ hát ru


Khấn thầm như gặp Chị

Mắt nứa cứa tay Em

        vẫy đón đầu làng

Khấn thầm

                 như mẹ lỡ đ̣ ngang

Miệng hé hạt na nḥa bến vắng

Cổ tay tṛn đẫn mía gie

Không

Bầu mẹ không tṛn

Bưởi Chị không hoa

Đă hết năm tu hú gọi rừng già

Đă sang mùa

tu hú ngủ rừng xa

Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát.  Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần.  C̣n thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn t́m, xem sao.

 Điều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên : Thơ hay là Thơ có tác động sinh lư lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim.  Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lư, tạo ra cái đa dạng của thất t́nh : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ...  Đă nói đến nhịp, là nói về nhạc.  Thơ hay không phải chỉ một câu hay.  Thơ hay, không phải một chữ hay.  Tṛ kén chữ cho khéo là tṛ kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ th́ ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa.  Thơ hay là thơ nh́n dưới góc độ một tổng thể.  Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ.  Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lư gây lên thất t́nh.  Thơ hay chính nó là Nhạc.  Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu.  Nhưng vần th́ thật ra thừa, và điệu, rất sáo ṃn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ( nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ).  Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó.  Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam v́ mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh.  Thơ anh có Mẹ, có Chị.  Những «Bầu Mẹ không tṛn, bưởi Chị không hoa».  Cũng v́ vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ làng.  «Chị lỡ xe hồng.  Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...».  Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non».  Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng ?

5

Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt.  Ngẫm lại, h́nh như những vết chém phi lư và vô nghĩa, những vết chém không làm sao t́m được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó.  Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó.  Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục.  Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần  cửa sắt chấn song.


 

Sau Tết năm Nhâm Tuất, tôi rời Sài G̣n sang Paris, ở nhà Tạ Trọng Hiệp vùng Gentilly.  Nhà bị kẻ gian cậy cửa.  Xe để dưới đường bị đánh cắp.  Ngày đêm, tôi cứ phải trông chừng Hiệp đang bị đại nạn t́nh với T, nói đến cái chết rồi khóc, và dự trữ rất nhiều thuốc ngủ.  Đến tháng sáu, tôi lại về Hà Nội sau khi dặn ḍ Hiệp là chớ chết dại.  Chết dại là chết v́ t́nh, chết khôn là chết với t́nh.  Lời dặn đó ngây ngô : làm ǵ có chết khôn hay chết dại.  Chết là hết, thế thôi.

Lần về này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đă «co cụm» lại sau Đại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đă tŕnh bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền.  Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào t́nh yêu.  Hay bất cứ ǵ đồng dạng với t́nh yêu.  Anh cho tôi một món quà mừng cái t́nh yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh h́ hục chép tay trên một quyển vở học tṛ.  Tôi vào Sài G̣n trước khi bay sang Pháp.  Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra.  Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài.  Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối ǵ cả : nhà xuất bản Văn Học  đă in nó năm 1994.  C̣n bắt anh, họ bắt v́ lư do ǵ rồi giam cầm anh một thời gian khá dài ?  Bán rượu ?  Hút thuốc phiện ?  «Hủ hóa» Việt Kiều ?  Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc.  Báo loan tin anh bị tù.  Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra.  Cứ thế, tôi khóc.  Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt.  Duy có một người da đen đến ch́a cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»

Bonne chance.  Năm ấy, tôi chẳng có một thứ may mắn nào cả.  Về đến chốn ngụ cư, tôi tất bật lo việc «bảo lănh gia đ́nh».  Tôi xin giấy nhập cảnh Việt Nam.  Lần này là cấm.  Lư do ?  Không ai cho tôi biết.  Đơn xin, không bao giờ có phép.  Cấm như thế sáu năm liền.  Gia đ́nh tôi qua.  Thế là đi vay, làm một quán ăn.  Tất cả mười hai nhân mạng, lấy ǵ mà sống.  Thực tế sống ở nước ngoài khác hẳn với sự mơ mộng của thành phần tương đối «dư dả» thời xưa ở Sài G̣n.  Các cô em nhăn mặt, qua đây mà phải đi hầu người ta trong quán ăn th́ thà ở Việt Nam c̣n hơn. Vài năm sau, các cô ấy đều ăn nên làm ra với dịch vụ quán ăn. Nhưng lúc đó, các cô em tôi  th́ thào cho tôi nghe thấy «...qua đây bị tư bản bóc lột lao động ...» và gọi tôi là ông giám đốc. Giám đốc đấy, nhưng lắm bữa trưa, tôi không có tiền ăn đến độ phải nhịn đói.   Rồi sau đó, tôi phải ra ṭa v́ đă kư giấy bảo lănh mà không cung ứng tiền chi tiêu cho đủ. Người trưởng thượng đâm đơn kiện lại là người ruột thịt: «Anh mang gia đ́nh qua là cứu (sic) cả gia đ́nh. Nhưng tôi, tôi bây giờ phải bảo vệ (sic) nó». Bảo vệ thế nào ?  Cô em dâu đến đề nghị cho một món tiền cỡ ba chục ngàn đô th́ xí xóa giấy bảo lănh. Cậu em th́ bảo cứ đưa cho cậu ấy quản lư toàn bộ quán ăn, tôi không được can dự, nhưng dĩ nhiên nợ nần vốn liếng th́ cứ vẫn tôi thôi (!). A, th́ ra thế! Tôi ở vào thế kẹt. Kẹt đủ điều: tôi không thời gian v́ c̣n nghiệp vụ chuyên môn, chẳng một ai để tin tưởng phó thác, đầu óc căng cứng khủng hoảng. Kẹt cho nên phải chẹt. Chẹt mọi mặt, mang ra ṭa gây áp lực chỉ là một phương án. Nhưng ông ṭa xét thấy tôi nợ đầy đầu, đến điện thoại cũng bị cúp v́ không có tiền trả, nên tha cho.  Ngoài ra, nghiệp vụ chuyên môn bị xao lăng v́ nào là chuyện quán ăn, nào là chuyện kiện tụng ṭa án, đồng nghiệp tôi «điều đ́nh» để tôi tự ư xin thôi việc.  Lại nữa, người vợ mới cưới qua Paris, kẹt lại v́ lao phổi.  Thế là phải gửi gấm.  Rồi bạn phản.  T́nh phụ.  Chỉ một năm, bằng ấy cái họa.  Mất nhà, mất nước, mất t́nh, nghề nghiệp bị đe dọa.  Quán ăn phải thuê người làm, bị ăn cắp hết v́ không lấy ai ra để trông coi. Lại nợ.  Nợ chồng nợ chất.  Nhưng ghê rợn hơn hết là sự trống rỗng.


Chính sự trống rỗng đó đă đưa tôi đến cạnh cái chết lúc ấy tôi đồng hóa với giải thoát.  Tôi thức hàng đêm, nh́n ra ngoài trời tuyết trắng mênh mông, đầu óc tê điếng, vô cảm, và chỉ thấy trùng trùng băng giá, không yêu không ghét không hờn không giận.  Chỉ trống rỗng. Cái trống tếch trống toác của thế gian không có một chút t́nh người. Tôi là tên tù nhân của cái ngục trống khủng khiếp không có cửa sắt chấn song. Lẽ sống lúc đó nhẹ tênh tênh, vậy th́ tự do mà làm ǵ.  Tôi nhịn đói hàng tuần, không thấy cần ăn, uống nước lạnh thôi là đủ.  Sống chết lúc đó ở ngoài tôi.  Soi gương, «ḱa ai đó - tôi lạnh nhạt-  chớ có phải tôi đâu».  Cho đến một hôm.  Vâng, hôm đó người bạn gái gốc Chilê, kẻ đă dịch một đoạn thơ tôi ra tiếng Tây Ban Nha gửi đăng trong một tờ báo phe tả ở Salvador, đến nhà tôi với một bông hồng.  Nh́n tôi, nàng nói «Không nhà thơ nào có thể chết được !» và cười rất tươi.

Nghe nàng nói, không hiểu sao tôi lại nghĩ ngay đến anh.  Lúc đó, anh vẫn c̣n nằm trong tù ngục.  Anh là nhà thơ.  Anh không thể chết được.  C̣n tôi, câu nói của Cecilia đẩy tôi ra khỏi một cuộc tuần du đầy ác mộng.  Tôi phải sống.

6

Có sống mới về thăm anh được.  Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm.  Dĩ nhiên, Đại Hội VI đă Đổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa.  Vậy th́ những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội.  Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà  lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đă vội khập khiễng đi t́m rạng đông.

Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lư Quốc Sư.  Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu th́ dẹp rồi.  Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống.  Anh đây.  Anh gày g̣, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đă khuyết một cái.  Anh ngẩn ngơ nh́n.  Tôi ôm lấy anh.  Chúng tôi ngồi nh́n nhau.  Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh.  Tôi nói «... có điều ǵ khúc mắc anh cứ hỏi».  Anh bảo «... giá em về trước hai năm th́ anh em ḿnh chẳng được thế này đâu».  Tôi im lặng.  Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư.  Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đă lấy lại rồi chứ ?».  Anh cười, cái cười đau xót.  Đó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù th́ anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến.  Nước mắt ứa ra, anh kể :

«... đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn.  Mở cửa màn, con bướm chui vào.  Anh linh cảm, anh biết, anh khấn.  Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ.  Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con».  Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở».

Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ ǵ.  Sau, tặng tôi tập thơ Men Đá Vàng, anh viết «...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc».  Đấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc.  Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ b́nh thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.


 Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc.  Anh nghiêm mặt bảo «...cái vốn từ của cậu chưa đủ.  Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều.  Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...»  Tôi căi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá th́ đều là «quá tải».  Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Đạt.  Anh Đạt khéo kết chữ cũ cho ra mới.  C̣n anh Dần, anh đi t́m chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ.  Anh quay hỏi «...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?»  Anh Đạt lư giải.  C̣n anh Dần, anh nh́n tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».

Căi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ.  Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều.  Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương.  Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập.  Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Đường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát.  Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Điểm.  Đấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đă đổ mồ hôi như vậy.  Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe.  Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh.  Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa.  Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.

Hợp rồi tan.  Tôi lại phải ra đi.  Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm phút».  Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn.  Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc.  Tôi nh́n theo anh trong bóng đêm.  Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm.  Bóng anh măi cũng xa dần rồi mất tăm.  Lúc ấy tôi cũng khóc.

Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.

7

Nhưng cũng có một thời những giọt nước mắt chảy vào trong.  Và rồi một thời khóc - cười là một.  Hè năm 1990, bước vào Nội Bài th́ người ta đă hờm sẵn.  «Xin mời ông qua bên này !».  Vâng.  Cuối cùng, «Ông hiểu cho.  Ông không có phép nhập cảnh !».  Tôi hỏi «... thị thực nhập cảnh đây.  Giấy mời đây.  Chắc là lầm lẫn ǵ đó...».  «Vậy ông đợi, chúng tôi điện vào Hà Nội».  Trưa hừng hực nắng.  Chiếc quạt máy vừa quay vù vù, vừa lắc đầu qua lắc đầu lại.  Nh́n ra sân phi trường, chiếc máy bay Air-Thai vẫn nằm ĺ ở đó.  Một tiếng đồng hồ qua.  Rồi hai tiếng.  Hai vị công an cấp tá lại ra.  Các vị bắt chiếc cái quạt máy lắc đầu «... Lệnh trên không cho phép.  Ông thông cảm...».  Tôi nói «...cứ để tôi ở khách sạn của phi trường.  Hôm nay là ngày nghỉ.  Đợi đến thứ hai, ngày làm việc, tôi xin điện vào hỏi kỹ...».  Lại tiếp «... vậy, ông đợi...».  Một lát sau «... Lệnh trên không cho !».  Chiếc máy bay Air-Thai không được phép cất cánh vẫn đó.  Tôi hỏi «Lệnh trên là trên thế nào ?».  Đáp «...trên là cao lắm, chúng tôi chỉ thừa hành».  Tôi cũng biết vậy, lắc đầu.

Tôi bước lên máy bay, được hai vị cấp tá xách hộ va-li đi hai bên.  Cô chiêu đăi viên hàng không Thái hai tay chắp, cúi đầu reo như thông lệ «Welcome to Air -Thai !», rồi đưa lên ghim một bông lan vào áo tôi.  Cô kịp nh́n ra bông lan cô gài cho tôi khi tôi sáng nay rời Bangkok bay đi Hà Nội vẫn c̣n đó.  Cô ngại ngần, ánh mắt tối đi một thoáng, nói nhỏ «I am sorry !»


Đến Bangkok, tôi phải đợi máy bay.  Tôi quyết định ra băi biển nằm, tránh cái hừng hực hè và mùi xăng dầu sùng sục xông vào mũi.  Lúc đó, tôi thừa thời giờ để t́m nguyên do cái việc thô bạo kia ở Nội Bài.  Phải, thời gian đó là chưa chẵn một năm từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ.  Và chỉ vài tháng sau những tiếng ḥ trên quảng trường Thiên An Môn.  Rồi đám Việt Kiều ngây thơ chúng tôi lại kư Tâm Thư này nọ ( mặïc dầu riêng tôi, tôi không kư v́ lư do Tâm Thư chưa đủ tính triệt để đáp ứng với thời cuộc lúc bấy giờ).  Rơ ghét.  Và tôi, cái con gà non ngông nghênh chưa sáng đă gáy, cho vào là lại tổ bực ḿnh rách việc !

Vâng, tôi nghĩ là chỉ có thế.  Lúc ấy, khóc - cười thành một.  Tôi không c̣n hờn oán ǵ nữa, chỉ thấy tội nghiệp cho quyền lực.

Những cánh phượng vĩ vẫn đỏ rực dưới nắng vàng óng ánh mật ong.  Đỏ như phượng vĩ Hà Nội.  Biển vẫn xanh và sóng vẫn ŕ rào.  Xanh như biển Việt Nam, quê hương tôi.  Và ŕ rào như đ̣i quyền sống.  Tôi thanh thản nh́n trời, nh́n nước.  Bấy giờ, rơ ràng quê hương đích thực chính là lương tâm.  Và mảnh đất lưu đày nào cũng là những mảnh đất không tôn trọng nhân phẩm và quyền con người.  Thôi, từ biệt nhé, ảo vọng về trí tuệ và ḷng thành tín trong guồng quay của thế quyền.  Từ biệt nhé, giấc mơ nóng vội đổi đời.  Tôi viết một bức thư dài gửi cho cái trục chính của guồng quay gọi là bộ Chính Trị, khẳng định tôi tin rằng dân chủ là tất yếu, và làn gió ấy sẽ rồi thổi đến quê hương tôi như điều không khiên cưỡng được.

Ngửng mặt nh́n những cụm mây trắng thong dong, tôi biết tôi là một người có tự do.  Vấn đề đặt ra : tôi làm ǵ với sự tự do đó. Tôi, một người may mắn, không thể vô trách nhiệm.

8

Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục.  Những  năm anh tù tội nằêm trong trại giam  lại ám ảnh tôi.  Anh tội ǵ ?  Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người ?  Nhân danh ai, nhân danh ǵ ?  Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !

Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền.  Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện tṛ duy nhất với những tội nhân.  Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ.  Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay.  Nhưng h́nh như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ.  Đó là một điều đáng hănh diện.  Đồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.

Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc.  Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo.  Hăy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của t́nh bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện...  Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đă tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ĐĐ..., yêu vân vân và vân vân.  Tôi mừng, ông ấy vẫn đó.  Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội.  Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.


Lại men cái ngách 43 Lư Quốc Sư.  Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn c̣n một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng.  Bây giờ, không ai réo tên nhau.  Phải bấm chuông.  Tôi hồi hộp.  Cửa mở.  Anh tḥ đầu nh́n, mắt nhắm mắt mở.  Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây.  Anh c̣m xuống.  Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả.  Anh cười.  Ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao th́ cũng như hơi mếu máo.  Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir.  Bàn kính.  Nhà lát gạch hoa.  Thế th́ đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ?  Thế th́ đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bâác vặn thật thấp li ti đốm cháy ?  Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm ǵ.  Leo gác hai, anh đẩy cửa.  Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ.  Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào.  Rồi dăm chiếc đóm.  Tôi ngồi sụp xuống đất.  Tôi bắt đầu nhận ra anh.  Anh cười.  Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.

Lần sau đến, tôi kể cho anh nghe ư định viết một vở kịch về quan họ.  Lần ấy, có TK, rất duyên và cực xông xáo vui chơi.  TK hẹn sẽ cùng nhau đi Bắc Ninh làm một chầu quan họ, dọa là «các em» bên đó «t́nh» lắm.  C̣n phần tổ chức «hành quân», TK la «...cứ để tôi».  Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai.  Khi bố con tôi đến th́ người nhà anh bảo anh ốm lắm.  Chúng tôi lại leo gác hai.  Trong pḥng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, ḿnh đắp chăn.  Tôi cúi xuống nh́n.  Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn.  Anh không nhận ra tôi.

Anh phải vào viện.  Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương.  Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi «tŕnh diễn» thơ ở Thái B́nh th́ phải.  Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ.  Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm.  Chúng tôi đến th́ đă có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội.  Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ nhỉ !».  Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ».  Ngớ ra, Việt không hiểu nh́n tôi ḍ hỏi.  Anh tiếp tục, rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... c ’est sur».  Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ.  Un poète-fou !»

Đúng đấy Việt ạ.  Có nhà thơ nào không điên ?  Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy nỡm lắm.  Già thế mà lên tivi cứ nói t́nh yêu này, t́nh yêu kia...  Nghe ngượng đỏ cả mặt !».  Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, v́ anh ấy sống phút nào là chong mắt t́m một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ.  Nỡm ư ?  Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không c̣n yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả t́nh yêu và đam mê.  Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không c̣n ǵ ngoài cái hành tŕnh của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia.  Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành tŕnh đó  anh cứ đi một ḿnh.  Chúng tôi xin ở lại.

Tôi đến chào anh một lần cuối trước khi bay vào Đà Nẵng.  Lần ấy, chúng tôi tẩn mẩn đếm sổ văn hóa xem có ai và đă làm được những ǵ suốt  ba mươi năm qua trong nền Thơ - Văn của chúng ta. Lần ấy là lần anh kêu «... thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !».  Có lẽ.  Huy Cận của Lửa Thiêng, trước khi làm quan th́ cũng chỉ được dăm ba bài.  Làm thơ, không thể làm quan.  Không thể làm giàu.  Làm quan làm giàu rồi, thơ chết.  Nàng Thơ không ưa công đường.  Không thích nhà cao cửa rộng, ngướ hầu kẻ hạ.  Và nàng chúa ghét những kẻ nói khéo, nói láo, nói dai, nói ngoa, nói nhiều và nhất là loại nói-không-ai-nghe.  Nàng hay ghen.  Yêu, th́ Nàng phải là Cứu Cánh, là vợ cả.  Không bao giờ Nàng chịu làm lẽ cho phương tiện danh lợi và quyền lực. Và ân ái với Nàng, bạn chớ chơi tṛ chơi «kiểu». Kiểu hiện sinh, hiện thực, hiện đại hay thậm chí hậu hiện đại theo chữ nghĩa thời thượng. Trong 36 kiểu, xin hăy làm t́nh theo cách tự nhiên phát sinh từ bản năng ḿnh. Với Nàng là chỉ có Thơ. Thế thôi.


Đếm, đếm đi đếm lại. Cuốn sổ văn hóa mỏng dần. Mỏng làm cho bật máu và chảy nước mắt. Tôi thấy dẫu anh bảo anh có lấy quá nhiều của thiên hạ, anh c̣n phải lấy nữa.  Ngoài dăm ba v́ sao lấp lánh, văn hóa của chúng ta mươi năm trở lại đây lại hụt hẫng vào cái rọ đen - cái black hole - ghê rợn kia trong một nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa. Nếu phải hô khẩu hiệu, tôi đả đảo cả hai, chỉ hoan hô một ḿnh nàng Thơ.

9

Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu.  Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết».  Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết.  Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả.  Nó đèo bồng trên lưng tự do.  Và càng tự do th́ gánh nặng càng nhiều.  Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm ǵ và sống ra sao với cái tự do đó.  Cho những người theo đ̣i nghiên bút, làm ǵ là viết ǵ.  Sống ra sao đồng nghĩa với ư thức trách nhiệm thế nào với người và với ḿnh.

Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ.  Anh viết kèm «... kể từ nay, tự do không c̣n là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết.  Con người biết tự ḿnh cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an.  Chúng ta có quyền hy vọng...».  Anh ta kể ra hoài băo thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không c̣n sợ hăi ǵ nữa.  Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết ǵ được.  Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đă viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ.  Từ đó, anh chịu.  Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang.  C̣n hai trăm trang kia, anh đă lặng lẽ viết trong nỗi lo âu.  Lo và sợ.  Đến độ vợ con anh cũng không hay biết.  Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế.  Anh buồn bă trả lời «...ngày trước, tôi viết chống một cái ǵ để cho một cái ǵ khác chưa có.  Nó thật rơ ràng.  Bây giờ ư ?  Cái ǵ đó chưa có đă thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không c̣n định hướng viết cho cái ǵ được nữa.  Có nhà xuất bản bảo tôi, hăy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán.  Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới.  Tôi đă thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi.  Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...».

Nhưng trách nhiệm đó là ǵ ?  Có lẽ với anh là ca ngợi T́nh Yêu chăng ?  Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại.  Sách in lem nhem, b́a photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994.  Tôi cầm cuốn sách, ḷng ngậm ngùi.  Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị t́nh phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa ?

Nhưng đó là những vần thơ t́nh rất đẹp.  T́nh yêu Kinh Bắc.  Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành.  Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng.  Lỡ làng, bến t́nh không người đợi.  Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu.  Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương.  Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng...  Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị vơng mây trôi.  Lỡ làng, em đứng nh́n theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ.  Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ.  Lỡ làng, là đời anh.  Bởi anh biết yêu.  Biết yêu là yêu đến cuồng dại, tôi viết tặng anh :

 

«Hờ hững buốt căm, bờ sóng lụy

      cuồng si thiêu rụi bến đa t́nh,

      Ba ngả sông về người bơi đứng


      Cợt đám hoa bèo dạt đến quanh..»

Để kết một cuốn sách  đọc lâu rồi nên tôi đă quên tên, Albert Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết «Je vous souhaite d’ être follement aimée.» ( Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại ).  Được yêu thôi ư ? Cũng tạm.  Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều.  Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại.  Tôi cũng chúc tôi yêu, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ.  Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết là phải thế chứ.  V́ Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ nghĩaNhững con chữ đẹp.  Những con chữ có đời sống.  Muốn đẻ ra chúng, th́ có hề chi những cơn đau trở dạ. Th́ có hề chi những lỡ làng.

Tôi nhớ đă hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa ǵ ?  Anh cười, có chút ǵ như là chua xót, «Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».

Hoàng cầm  c̣n vận vào thành một vị thơ.  Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của ḍng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20.  Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đă sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp -hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva. Nhưng hề chi, có hề chi.

Viết đến ḍng này, đếm ra c̣n đúng bốn ngày nữa là chúng ta cùng bước qua ngưỡng cửa thế kỷ 21.  Tôi lại chúc, anh Cầm, chúc anh yêu đến cuồng dại cả thiên niên thứ ba này, anh nhé.

27-12-1999