PVNguyenNgoc

Văn học, nội lực, trong-ngoài, và ….

vài tra vấn với nhà văn Nguyên Ngọc

 

 

    Nhà văn Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn văn Báu, sinh năm 1932 tại Đà Nẵng, sống tại Hội An, c̣n có bút hiệu là Nguyễn Trung Thành. Ông tham dự hai cuộc chiến tranh, nguyên Đại Tá QĐND Việt Nam, lăn lộn trên chiến trường miền Nam, Tây Nguyên và  chiến khu V  cho đến ngày ḥa b́nh. Không hỏi, ông chỉ nói ḿnh đă từng là Bí Thư xă, một chức vụ có lẽ ít người mang ra khoe. Hỏi, ông mỉm cười ( ngượng ngịu ? ) nhận đă từng là Đại biểu Quốc Hội khóa VI, Phó tổng thư kư Hội Nhà Văn Việt Nam  (79-86).  Những chức vụ đó thường thuộc loại hữu danh nhưng ít khi (thiết) «thực». Ông dí dỏm kể, suốt thời gian làm Đại Biểu Quốc Hội, ông phát biểu có đúng một lần, về vấn đề tự do báo chí…

 

Nam Dao

 

 

-  Thưa anh, anh đă làm Tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ từ 1987 cho đến 1989. Anh có thể kể sơ qua cho độc giả Hợp Lưu cái nhân duyên nào đă khiến anh nhận cái trách nhiệm ‘’cởi trói’’ cho văn nghệ thời đó không ?

 

-  Cái thời đó báo Văn Nghệ ế lắm, ra đâu được hai mươi hay hai mươi lăm ngàn số ǵ đó, đọc th́ chán nên bán không ai mua, ngân sách thâm thủng, lại đèo bồng một ban biên tập ăn không ngồi rồi đông lắm…T́m Tổng biên, chẳng ai «xung phong». Thế rồi có một ai đó gióng lên tên tôi …Anh em họ bảo, cũng được đấy, cũng tốt thôi. Anh Trần Độ lúc đó là Trưởng ban Văn Hóa Văn Nghệ nghe, rất đồng ư. Anh Nguyễn Đ́nh Thi lúc đó là Tổng thư kư Hội Nhà Văn ban đầu cũng vun vào, nhưng sau nghĩ lại lại ngại ngùng thế nào đó nên dùng dằng. Thế nhưng bên văn pḥng ông Độ, người ta cứ điện thoại giục măi cho nên cuối cùng th́ rồi… cũng tốt thôi. Cái thuở ban đầu lăng nhăng ấy ( chứ không phải là lưu luyến ǵ nhé ), việc cần làm ngay (nói kiểu khẩu hiệu lúc bấy giờ) là mời đâu đến gần nửa số anh em trong Ban Biên Tập là cứ lănh lương nhưng không phải đến cơ quan, để yên cho người khác làm việc…

 

-  Có những nghề là nghề không làm ǵ cả. Có những nghề chuyên thọc gậy bánh xe (thơ Nguyễn Duy) !

 

-  Ờ (cười)…Sau những cái linh tinh, đến đoạn phải chọn, phải t́m bài. Tôi lục đống bản thảo báoVăn Nghệ đă từ chối, thấy có Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp, quả là chuyện nhân duyên! Sau một thời gian ngắn, người đọc rất tinh lập tức nhận ra báo Văn Nghệ đă có sự chuyển hướng rơ rệt, quyết nh́n thẳng vào các vấn đề xă hội  nóng bỏng, liền quay lại với tờ báo, thật sự coi đó là tiếng nói tâm huyết và trung thực của họ, báo phát hành đến  trăm năm mươi ngàn số mà vẫn thiếu. Anh Nguyễn Khắc Viện ở SàiG̣n về, bảo anh ấy từng sống bên Tây mấy mươi năm, nhưng chưa bao giờ anh ấy thấy cái cảnh người ta đứng chờ ở sạp báo rồi thuê để đọc, đọc xong trả lại, có người khác thuê ngay…Đó là thời có Cái Đêm hôm ấy Đêm ǵ của Phùng Gia Lộc, Tiếng  đất của Hoàng Hữu Cát, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Lời khai của bị can của Trần Huy quang, người ít lâu sau đó sẽ viết Linh Nghiệm là những sáng tác thật sự gây chấn động.

 

-  Thời Văn Nghệ bị phê là ‘’làm’’ văn nghệ ẩn dụ và ám chỉ ?

 

-  Ờ …người ta mang ra họp và hỏi những nhà văn nhà thơ, Linh Nghiệm thế này có đúng là ám chỉ Bác Hồ không ? Nguyễn Duy  nó bảo không, chẳng thấy Bác đâu, chắc cái anh  mang tố Linh Nghiệm có tính ám chỉ mới là cái anh xấu, cứ để nói măi th́ rồi đọc măi cũng thấy có ám chỉ thật …

 

-   Thế c̣n chuyện cởi trói?

 

-   A, cái từ sau này thường được nhắc đi nhắc lại, là ‘’cởi trói’’, và ‘’cởi trói cho văn nghệ’’! Tôi th́ tôi cho rằng cách nói thế là không hoàn toàn đúng. Nói như vậy là cho rằng bấy giờ đă có một ai đó, do có ḷng tốt (thiện chí), do thấy thương hại, động ḷng mà cởi trói và văn nghệ được hàm ơn nên rồi đă đổi mới. Sự thực, không phải như vậy. Chẳng ai có ḷng tốt cả. Và trong những việc này, ḷng tốt chẳng có ích dụng ǵ. Cuộc sống không phát triển do ḷng tốt may rủi của một ai đó. Sự thật diễn ra thời ấy không phải như vậy. Ngược lại.

 

-  Ngược lại ? Xin anh khai triển thêm…

 

-  Sự thật bấy giờ là sự sống bị dồn nén lâu dài , do sức mạnh nội sinh tích luỹ, cuối cùng đă phá vỡ làm bật tung những ràng buộc vô lư, phi tự nhiên. Cuộc sống tự nó phá trói, mở đường đi tới. Những trói buộc đă bị bật tung v́ chúng không đủ sức ḱm hăm nữa. Nói cách khác, sự đi tới của cái tự nhiên, qua dồn nén lâu ngày, đă mạnh hơn cái phi tự nhiên. Đấy mới chính là bản chất của ‘’Đổi Mới’’. Như chúng ta biết, đổi mới đă được bắt đầu trong kinh tế, trước hết là trong nông nghiệp (với sự kiện khoán chui ở Vĩnh Phú cuối thập niên 60). Rơ ràng là nông dân đă tự phá trói chứ không phải lănh đạo, do có ḷng tốt mà chủ động cởi trói cho nông dân. Tất nhiên tôi hiểu và công nhận vai tṛ của những cá nhân cụ thể. Sự xuất hiện đúng lúc của họ tạo kích tố cho sự sống bung ra và phát triển nhanh hơn, thuận lợi hơn. Nhưng nghĩ cho cùng th́ chính sức mạnh bị dồn nén đến lúc bứt phá đă ‘’đẻ’’ ra họ vào đúng thời điểm đó. Tôi cho rằng cần nh́n như vậy để  hiểu rằng thời kỳ văn học 1986-1991 là có tính qui luật.

 

-  Điểm qua thời đó, có những  NguyễnHuy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Dương Thu Hương, Nhật Tuấn, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Ngô Ngọc Bội…gây sự kiện đổi mới trong văn học. Sự bùng nổ này, anh cho là có qui luật. Thế th́  v́ sao nó ngưng lại từ 1992?

 

-   Nói đến tính qui luật cũng để thấy nếu sau đó nó lại bị khựng lại, th́ nói cho cùng,  cũng là khó tránh khỏi, là tất yếu, là qui luật. Và cũng để tin rằng, đến một lúc nào đó, cũng sẽ tất yếu diễn ra một cuộc phá trói mới. Nói tóm lại, mọi diễn biến củ văn học, bứt ra, tiến lên, hay dừng lại, đều chủ yếu là do nội lực của nó. Không thể khác được .

 

-  Nội lực của văn học? Thuật ngữ này nhắc tôi chuyện một văn hữu nhắn hỏi anh tại sao mà những nhà văn nước ta cứ như Tŕnh Giảo Kim, chém đúng ba búa là rồi bỏ chạy dài dài… Cái «mệnh văn» của nhà văn An Nam, cụ Nguyễn Tuân than thở, nó yểu thế nào ấy.  Trong văn  học ta từ 92, rơ la øthiếu sự kiện và hiện tượng. Không có thành tựu trong tác phẩm.  Xin hỏi anh, tại sao có hiện tượng chợ chiều này trong khi những vấn nạn và vấn đề mới mẻ trong xă hội th́ đầy rẫy, nào là  định hướng thị trường của cái XHCN oặt oẹo, sự bơ vơ ư thức hệ, xă hội  trên  đà mất (hay đang t́m…?) đạo đức (mới…?) ? Cái ǵ đă cản trở ? Có phải là vấn đề tự do sáng tác không ?

 

-  Muốn hiểu v́ sao có t́nh trạng chợ chiều hôm nay cũng không có cách ǵ khác hơn là nh́n lại thực chất nội lực của văn học. Văn học thời Đổi Mới đă bứt phá ra được v́ nội lực của nó qua dồn nén lâu dài đă đến lúc trở nên mạnh hơn những lực lượng ḱm hăm. Nhưng trong cuộc bứt phá đó nó đă «tiêu xài» hết nội lực có được, như chiếx xe cạn xăng, sức đuối dần đi, đến khi dừng lại hẳn như hiện nay.

Trong sự dừng lại hiện nay, có nguyên nhân của sự cản trở không ? Có chứ. Nhưng thử nghĩ xem bao giờ mà không có sự cản trở. Các lực lượng ḱm hăm th́ thời nào chỗ nào cũng không thiếu. Vấn đề là anh có đủ sức phá nó ra không ? Vấn đề hiện nay là tự anh đă yếu đi, do đă tiêu hết nội lực có thật của ḿnh. Tôi cho rằng những hiện tượng như Nguyễn Huy Thiệp đă dừng lại, Bảo Ninh th́ hầu như không c̣n viết ǵ đáng chú ư nữa …đều có thể nói là tất yếu. Họ đă «xài» hết cái «trời cho», tức tài năng bẩm sinh của họ cộng với «vốn sống», tức sự trải nghiệm của họ. Họ đă trở nên hụt hẫng.

 

-  Có thể đây là một vấn đề quan trọng nhất của sự phát triển văn học Việt Nam nên xin anh đi sâu hơn nữa vào  vấn đề này.

 

-  Vâng…một nhà văn viết bằng cái ǵ ? Theo tôi, có ba cái chính : tài năng «trời cho», sự trải nghiệm, hay «vốn sống» và cái thứ ba là nền tảng văn hoá dân tộc và nhân loại mà anh ta có được , anh ta «đứng» trên đó để tiếp tục đi tới.

Lớp người trẻ cầm bút ở Việt Nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này. Thử nh́n lại cha ông chúng ta, những Nguyễn Trăi, Nguyễn Du, Cao bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Đoàn thị Điểm, Hồ xuân Hương…mà xem. Khi họ cầm bút th́ đằng sau lưng họ là cả một cái vốn văn hóa khổng lồ của phương Đông. Nền giáo dục thời đó đă cho phép họ chiếm lĩnh gần như toàn bộ những đỉnh cao nhất của văn hóa nhân loại ( hiểu ở nghĩa đối với chúng ta thời ấy chỉ bao gồm Trung Hoa và Aán Độ, với Nho Giáo và Phật Giáo). Chính trên cái nền tảng vĩ đại đó mà họ đă phát huy tài năng trời cho và vốn trải nghiệm sâu sắc của họ, tạo nên những tác phẩm có tầm mức kinh điển của thời đại họ. Qua đến thế hệ nhà văn thời Pháp thuộc th́ nền tảng của họ là truyền thống văn hóa cũ cộng với tri thức mới do nền Tây học mang lại. Họ cũng có những đóng góp tầm cỡ, như Thơ Mới, Tiểu Thuyết…Sự hụt hẫng của lớp người cầm bút hiện nay ở Việt Nam chính bởi toàn bộ cái vốn văn hóa dân tộc và nhân loại mà các thế hệ trước có th́ đến nay họ không c̣n có được nữa. Ở đây đương nhiên có vấn đề của nền giáo dục trong nước suốt nhiều chục năm qua. Đó là thời gian có thể nói là chúng ta gần như không có Đại Học thực sự. Anh Hoàng Ngọc Hiến gọi rất đúng Đại Học trong nước là trường «phổ thông cấp bốn». Chỉ xin lấy một ví dụ : trong nền giáo dục ở mọi cấp, gần như hoàn toàn không dậy triết học. Tất nhiên có môn gọi là «triết học Mác-Lênin», nhưng môn này không được giảng như triết học mà chỉ là những khóa huấn luyện chính trị rất sơ đẳng. Thế cho nên những người cầm bút thuộc thế hệ trẻ trong nước hiện nay có thể nói là hoàn toàn không hề được tiếp cận với di sản triết học nhân loại, cả phương Đông lẫn phương Tây. Thật khó mà tưởng tượng được một nhà văn mà không có chút vốn triết học nào !

 

-  C̣n vấn đề tự do sáng tác ? Cái mà ta gọi là một nền văn nghệ «minh họa» phải chăng đă cản trở không để cho những tài năng phát triển một cách b́nh thường ?

 

-  Đương nhiên có vấn đề tự do sáng tác. Nhưng thử nghĩ giá như bây giờ không c̣n sự g̣ bó hạn chế tự do nào nữa th́ có ngay được sáng tác lớn không ? Tôi không tin rằng sẽ có cái ǵ đáng kể ngay đâu. Cởi trói, hay đúng hơn  phá trói những năm 86-91 đă tạo ra được một thời kỳ phát triển khá tốt đẹp với Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vv… Nhưng ta đă thấy những tài năng đó không «hậu»  được. Và hàng chục năm qua rồi, không có hiện tượng nối tiếp đáng kể. Tức là, tôi muốn nói, phải nh́n lại và đặt vấn đề phát triển nền văn học của chúng ta một cách cơ bản, rất cơ bản, để mong có thể đi xa, đến một tương lai văn học mà chúng ta đều mong đợi.

 

-  Vấn đề đặt rộng như thế đ̣i hỏi rà soát lại toàn bộ cơ cấu văn hóa của Việt Nam, từ thời Cựu học với chữ Hán- Nôm, rồi qua Tây học với chữ Quốc ngữ đă loại bỏ h́nh tượng mà chỉ giữ âm thanh trong ngôn ngữ. Với một thời gian quá ngắn, Tây học chưa đủ căn cơ th́ cả nước đă lao vào chiến tranh, và từ đấy văn học miền Bắc phát triển theo hướng tuyên truyền huấn dụ. Văn học «tuyên huấn» là công cụ chính trị nên ít khi phát huy được tính văn học như một nghệ thuật. Dĩ nhiên  không cứ  có tự do nghĩa là có nghệ thuật. Anh đă dịch Kundera, và anh có nhắc đến 3 khả năng của một nhà văn theo Kundera, là kể, tả và suy nghĩ một câu chuyện.  Phải chăng nhà văn ta  chỉ kể, rồi  tả, nhưng không đến được, như Kundera phân loại, mức « nghĩ» một câu chuyện? Tại sao lại thiếu « nghĩ» trong trường hợp văn học nước ta?

 

-  Nhà văn ta kể th́ họ có nhiều chuyện để kể, tả (nghĩa lả có văn phong riêng) đă ít hẳn  đi, và đến «nghĩ» th́ trở nên thật hiếm hoi. Thực ra, họ biết rằng phải «nghĩ» chứ không thể dừng ở mức «kể» và «tả». Chỉ có điều khó có thể có một sức nghĩ sâu trên một nền tảng văn hóa triết học cạn như đă nói. H́nh như trong văn học ta thường có hiện tượng ba búa Tŕnh Giảo Kim, như anh nói : các tài năng xuất hiện rất sớm như Chế Lan Viên, Nguyên Hồng ở tuổi 16, 17…như những ánh chớp, nhiều khi thật sáng loé, nhưng sau đó không đi được xa,   sớm lụi, hoặc kéo dài măi t́nh trạng le lói làng nhàng. (Giọng nhỏ đi, thở dài) Nguyễn Tuân than như anh kể thế là đáng than lắm, anh à! Đấy, lại vấn đề nộâi lực…

 

-  Làm cách nào tăng nội lực ?

 

-  Mở ra, tiếp cận trước rồi hội nhập với nền văn hóa của thế giới. Nhưng làm thế nào. Những anh em trẻ cầm bút trong nước rất ít khả năng sinh ngữ để đọc và thẩm thấu văn chương nước ngoài. Trong đám anh em tôi biết ở Hà Nội, số có tŕnh độ đọc được trực tiếp văn học thế giới bằng ngoại ngữ có thể đếm, và không hết năm ngón trên 1 bàn tay! Vậy trước mắt, phải dịch. Việc này là việc rất nghiêm túc, đ̣i hỏi tay nghề, là dịch thuật văn học chứ không phải dịch chỉ để ‘’lái sách’’ tung ra bán kiếm lời trên thị trường. Trong nước cũng đă có người thấy t́nh trạng này, mong muốn có một chương tŕnh dịch sách văn học có nguyên tắc và tiêu chuẩn, sách dịch dễ đến 50 năm cũng chưa hết, nhưng không t́m ra tiền. Mà nước ḿnh, dẫu là nước nghèo th́ nghèo thật, nhưng không  phải không có khả năng bỏ tiền vào một đề án như vậy nếu Nhà Nước biết bớt đi những thứ chi tiêu ba lăng nhăng ( thở dài, chép miệng)…Tôi cố gắng góp thử một tiếng nói bằng cách dịch một vài tác phẩm lư luận văn học của Kundera, hiện có thể đọc một phần trên Talawas. Và một tác phẩm của Roland Barthes (mỉm cười). Hiện có nhà xuất bản Đông Tây ở Hà Nội làm công việc dịch thuật là nơi rất đáng cộng tác và khuyến khích. Vấn đề của họ vẫn là có tiền để làm những việc văn hóa vô vụ lợi. Nhưng đây là vấn đề cho tất cả những người đứng đắn và lương thiện…

 

-  Có lẽ trước mắt chỉ có con đường dịch tác phẩm nước ngoài để người viết trong nước tiếp cận với văn học thế giới. Nhưng dịch, như một phương cách tiếp cận để  cách tân hay bắt chước ? Nếu chỉ bắt chước, sẽ đi đến đâu ?  Tiếp tục sùng bái hàng ngoại,và làm giả loại thứ phẩm hàng nội, để bán rẻ ? Để đánh lừa nhau ?

 

-  Gần đây, một số cây bút trẻ dường như đang cố phá vỡ những nếp viết cũ, háo hức đi t́m cách viết mới, khác, ra ngoài  truyền thống và cũ ṃn. Về cơ bản, đó là những cố gắng lành mạnh, đáng trân trọng. Tuy nhiên, quả thật có hiện tượng : tôi có cảm giác những t́m ṭi phá vỡ này c̣n thiếu một cái ǵ đó để có thể thành công. Có lẽ phải chăng v́ nó thiếu một nền tảng cơ bản, và như vậy th́ rất dễ rơi vào t́nh trạng «học đ̣i», bắt chước, lúng túng, chắp vá…Đây là một vấn đề rất nghiêm túc, đ̣i hỏi một sự nh́n lại toàn diện cho những triển vọng lâu dài và bền vững của văn học ta.

 

-  Hiện nay có vẻ có những giọng điệu mới trong văn học, và h́nh như người ta, trong cũng như ngoài nước,  cho rằng cái chuyện để kể không quan trọng bằng h́nh thức nhà văn dùng để kể những chuyện ấy. Nội  dung  là h́nh thức?  H́nh thức  không chỉ chuyên chở mà bao gom nội dung trong nó? Số Hợp Lưu 73 này mang chủ đề Tiểu Thuyết Việt Nam. Nhân đây, xin anh cho biết ư anh về cái cặp biện chứng nội dung-h́nh thức ám ảnh ngàn đời những nhà văn,  nhất trong là nền tiểu thuyết Việt Nam  đang có đ̣i hỏi hồi sinh sau những quày hàng ế buổi chợ tàn nắng văn ! 

 

-   Tôi quan niệm Tiểu thuyết không chỉ là một thể loại văn học. Hơn thế rất nhiều, đó là một bước phát triển quan trọng và cơ bản trong tư duy của con người về thế giới, là một thời đại mới trong tư duy của con người. Có thể kể những đặc điểm của tư duy ấy là tính không tất định của cuộc sống, phi tuyến tính, thoát ra khỏi tư duy cơ giới vốn coi những điều hợp lư như một cỗ máy, biết nguyên nhân th́ rơ hậu quả, cái trước cái sau…

 

-  Nói thế th́ tiểu thuyết đang hóa thân thành cái kiếp sau của Vật Lư học nửa đầu thế kỷ 20  ư ? Thật ra, có thể văn chương đă đi trước, anh ạ…Chỗ đứng của văn chương cạnh khoa học và triết học c̣n là việc phải bàn căi sau. Nhưng ta hăy tạm gác bàn căi này lại…

 

-  Nói cho đúng hơn th́ văn học (và nghệ thuật) với vật lư (và khoa học tự nhiênnói chung) là những bổ sung thiết yếu để con người có thể làm chủ được tự nhiên đồng thời vẫn luôn giữ được chất người cuảa ḿnh…Thế giới vật chất đă phức tạp như thế, th́ ở cơi nhân sinh làm ǵ có một chân lư độc tôn, mà luôn có nhiều chân lư trái ngược cùng tồn tại, đan chéo vào nhau, chồng chất lên nhau. Tiểu thuyết là nền nghệ thuật có khả năng thể hiện điều đó. Khi không làm được, th́ văn học chỉ có truyện kể, chưa thực sự có tiểu thuyết. Chúng ta chờ đợi tiểu thuyết Việt Nam chuyển sang một kiểu tư duy mới, tức một «nội dung » mới, chứ không phải chỉ kể chuyện mới. Trong nghệ thuật, muốn có nội dung mới th́ phải có h́nh thức mới. Thật ra, phân biệt nội dung và h́nh thức chỉ là một cách nói. Trong nghệ thuật, nội dung và h́nh thức là một. Chúng ta chờ một sự phá vỡ đưa đến những tiểu thuyết mới.

 

-  Bây giờ, trong văn học ta đầy Thơ và Truyện Ngắn, rất ít tiểu thuyết, khác với thời Tự Lực Văn Đoàn, thời Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng. Tại sao ? Có phải v́ tiêủ thuyết không có độc giả v́ nay cuộc sống tất bật, không ai có th́ giờ đọc hàng trăm trang…

 

-  Không , tôi không nghĩ vậy. Không có tiểu thuyết hay th́ đúng hơn. Tài hoa như Nguyễn đ́nh Thi nhưng Vỡ Bờ của anh ấy không thành công…

 

-  Nhớ cách đây hai mươi năm, tôi được nghe anh Nguyên Hồng kể trong một đêm giáng sinh ở Hà Nội,  có cả Nguyễn Tuân , Văn Cao ở nhà anh chị Lân. Anh Thi đưa anh ấy đọc Vỡ Bờ rồi hỏi, so với Chiến Tranh và Hoà B́nh của Lev Tolstoi th́ thế nào? Nguyên Hồng đáp, cái lép- tôn- ông không so được cái lép- tôn- tôi !(cười)… Thoắt một cái mà các anh ấy đă đều thành những người muôn năm cũ…

 

 -  Sóng Gầm của Nguyên Hồng đậm chất sử thi nhưng chưa phải là tiểu thuyết. Sau, có Nỗi Buồn Chiến Tranh cuả Bảo Ninh là một thành công. Hiện nay, Nguyễn B́nh Phương đang thử nghiệm một số đột phá nhưng phải chờ thêm thời gian. Vâng, đúng như anh nói, ta kém về mặt tiểu thuyết…Có lẽ ta ít truyền thống tiểu thuyết. Ở ta, truyền kỳ th́ có, nhưng cũng chỉ loáng thoáng, đếm ra chưa quá số ngón hai bàn tay. Trung Quốc khác, họ có truyền thống. Và nay, với những Trương Hiền Lương, Vương Sóc, Mạc Ngôn…tiểu thuyết của họ đang rộ nở. ..

 

-  Vào thế kỷ thứ 1, Trung Quốc đă có 1380 truyện dân gian, góp thành 15 quyển. Đến thời Ngụy Tấn, hai thể tiểu thuyết chí quái và dật sư đă rất thịnh hành, ghi chuyện lạ và chuyện quỉ thần. Đời Đường, truyện truyền kỳ phổ biến rộng và sang đời Tống/Nguyên, truyện b́nh dân hóa đến độ có nghề đi kể truyện với các thể loại như sử, tôn giáo, kiếm hiệp, t́nh yêu, liêu trai…Ở ta, Truyện Thầy Lazaro Phiền cuả Nguyễn Trọng Quản là cuốn tiểu thuyết văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ in năm 1887. Phải đợi đến thời 1930-45 tiểu thuyết mới được mùa. Nhưng từ đó cho đến nay, tiểu thuyết Việt Nam  vẫn ngừng ở chủ nghĩa  lăng mạn và hiện thực, chậm mất  gần 100 năm so với tiểu thuyết phương Tây. Sở dĩ so được như thế là v́ tiểu thuyết Ta có vẻ như một thứ sản phẩm bậc hai, một thứ phó phẩm, của tiểu thuyết Tây . Ở Trung Quốc, Nhật Bản…tiểu thuyết hiện đại của họ có phong cách đặc thù, v́ thế nhanh hay chậm không so được và không thành vấn đề.  Như vậy, đúng là ta ít truyền thống. Ở b́nh diện văn học, chúng ta rất lệ thuộc vào cấu trúc tiểu thuyết Tây phương. Các nhà lư luận văn học dùng phần lớn những điển mẫu thẩm mỹ Aâu Châu trong tiểu thuyết để kêu gọi những nhà văn Việt Nam «cách tân», vinh danh những á thánh mới như Derrida, Foucault, và vân vân, với những trào lưu  nào là Tân Tiểu Thuyết, Hậu Hiện Đại …Những tương quan giữa ngôn ngữ, văn hóa (nói rộng) và thẩm mỹ ít được quan tâm, cho nên có lẽ v́ thế sản phẩm văn học của chúng ta đến nay chưa đạt được một phong cách thẩm mỹ riêng tư, một phong cách mà nói đến ai cũng có thể bảo là phong cách Việt Nam …

 

-  Đă đành… Đói thiếu th́ chỗ nào vay được là vay thôi, nhất là chả thấy ai bắt trả tiền lời ngay! Nhưng mặt khác, anh cứ để ư mà xem, nh́n đ́nh chùa thành quách nước ḿnh th́ so ra h́nh như ta thích cái ǵ tinh sảo nho nhỏ. Tinh sảo đấy, nhưng chỉ nho nhỏ thôi. Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên trong ṿng ảnh hưởng Nho giáo nhưng khác ta : họ có những công tŕnh cả vật chất lẫn tinh thần to tát hơn, lâu dài hơn của ta…Thơ và Truyện Ngắên là những cái tinh sảo, trong khi Tiểu Thuyết th́ ắt công phu hơn ( nhưng không phải là khó hơn. Cái ǵ hay cũng khó như nhau cả!), dài hơi hơn, rộng trải hơn…Nhưng cũng phải nói, nhà văn những nước vừa kể này có điều kiện sáng tác thoải mái hơn những nhà văn nước ta …( giọng buồn đi) Nhưng thôi, nói măi, biết rồi, khổ lắm…

 

-  Thưa anh, đúng là khổ lắm…Chúng ta qua một  vấn đề khác nhé. Có nên và có cần phân chia ra một  nền văn học hải ngoại và một nền văn học quốc nội không? Hay là cứ viết tiếng Việt th́ là văn học Việt Nam  mà thôi, không hàng nội hàng ngoại ǵ  nữa?

 

-  Vấn đề này không mới. Cách đây hơn mười năm, vào khoảng năm 1990. trả lời tạp chí Cửa Việt tôi có nói rằngtheo tôi, một tác phẩm viết bằng tiếng Việt dù của bất cứ ai, viết bất cứ ở đâu, vào bất cứ thời gian nào, miễn là nó hay, th́ đều là tài sản chung của dân tộc Việt Nam , không ai có quyền tước đi của nhân dân Việt Nam tài sản tinh thần đó. Tất nhiên hồi bấy giờ, và ngay cả hiện nay, có nhiều người không tán thành ư kiến của tôi, thậm chí phản đối nó quyết liệt. Đó là quyền của họ. C̣n tôi, tôi vẫn giữ ư kiến của tôi. Hơn mười năm qua rồi, tôi nghĩ rằng ư kiến đó càng đúng.

Chưa bao giờ trong lịch sử chúng ta lại có hơn hai triệu người ở nước ngoài như hiện nay. Tôi không thảo luận về nguyên nhân của thực tế này, chỉ nhấn mạnh rằng đó là một thực tế lịch sử sống động và to lớn. Những người Việt Nam ở nước ngoài trong mấy chục năm qua đă hoàn thành một khối lượng văn học không thể phủ nhận được . Đó là một bộ phận của văn học Việt Nam hiện đại, chẳng có ǵ phải bàn căi. Cùng với văn học trong nước, văn học hải ngoại làm nên diện mạo của văn học Việt Nam ngày nay. Sẽ cực kỳ thiếu xót nếu biết văn học Việt Nam  ngày nay mà không biết văn học Việt Nam hải ngoại. Vấn đề có lẽ chủ yếu là ở những chỗ này : ssự đóng góp đáng kể nhất của bộ phận văn học này đối với nền văn học Việt Nam hiện đại là ở chỗ nào ? Và triển vọng của nó ra sao ?

Về điểm thứ nhất, theo tôi, bộ phận văn học này phản ánh số phận của một thành phần quan trọng  trong dân tộc mà những người viết trong nước khó có khả năng tiếp cận, hiểu và viết được. Thiếu nó, th́ văn học chúng ta sẽ khuyết đi một mảng rất lớn và rất quan trọng của khuôn mặt con người Việt trong thời sóng gió hung bạo của lịch sử dân tộc như chúng ta đă, và đang, trải qua. Văn học Việt Nam do vậy sẽ què quặt.

Bộ phận văn học này có thể c̣n có một đóng góp quan trọng khác : nó đem đến cho văn học ta những kinh nghiệm của văn học hiện đại thế giới mà văn học trong nước, do những hạn chế khách quan và chủ quan, khó có được.

 

Vấn đề là làm thế nào cho hai bộ phận văn học trong và ngoài nước «thông thương» được với nhau, phá đi mọi cản trở vô lư giữa hai bộ phận của một cơ thể văn học thật ra là thống nhất.

 

-  Đồng ư 100%. Đă có Hợp Lưu bên ngoài, bây giờ phải có ‘’Thông Thương’’ trong nước, đối với văn hóa th́ thôi đừng  ngăn sông cách chợ như quyền lực đă từng ứng xử với khâu kinh tế. Nhưng anh ơi, có một nhà văn về nước chỉ dám khai ḿnh là thợ tiện- cái nghề kiếm sống- mà lờ đi nhà văn, là chức năng của anh ấy, v́ có thế mới thuộc giai cấp công nhân tiên tiến,  và nhất là không mang cái hơi hướng ‘’diễn biến ḥa b́nh’’ trên người.  Và nói chơi mà thật nhé, tôi đi khắp nơi, từ Á sang Aâu, Mỹ, Phi, qua  đến hàng dăm ba chục cái phi cảng nhưng mỗi lần về đến Tân Sơn Nhất hay Nội Bài là lần nào lần ấy tôi cứ len lét, như đồng bào tôi, mà chẳng hề ăn cắp ăn trộm hay ăn cướp ǵ cả…

 

-  (Cười, ngắt)…Dạo này cũng có khá hơn trước. Nhưng cứ phải về thôi…

 

-  … nếu không c̣n phân biệt trong-ngoài như anh nói, ‘’thông thương’’, hay gọi khác đi là hiệp thông, đ̣i hỏi hai chiều trên cơ sở b́nh đẳng. Nay hải ngoại đă in và phát hành những tác phẩm trong nước, nhưng ngược lại th́ vẫn chưa thấy ǵ. Vậy in ấn và phổ biến  những tác phẩm của bộ phận văn học hải ngoại cần phát huy như thế nào?

 

-  Trong nước đă in Nguyễn Văn Thọ, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh…

 

-  Dạ…nhưng như thế vẫn là ‘’cây nhà lá vườn’’, thương nhà nhớ nước, sản phẩm bộ đội Trường Sơn và Trường «cấp bốn» khoa Văn Hà Nội!

 

-  Tôi được biết đang in Hợp Âm Vùng Sân Khuất của Mai Ninh nữa đấy. Mai Ninh th́ chất Âu Châu chứ, có cái mới, lạ…

 

-   …và không có vấn đề ‘’nổi’’ dễ xếp vào thể loại diễn biến ḥa b́nh (cười).

 

-  Ờ…ở ta th́ cái ǵ cũng dần dần, anh biết rồi…(vừa cười, vừa thở ra) Mới lạ cũng là vấn đề, nhưng may mà ít ai bắt bẻ…

 

-   Đă chỉ có một nền văn hoá th́ c̣n một  hệ luận : đối với  những nhà văn, nhà thơ có đóng góp trong thời Việt Nam Cộng Hoà như Dương Nghiễm  Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Cung tích Biền….đang ở trong nước, những Thanh Tâm Tuyền, Vơ Phiến, Tô Thuỳ Yên…ở ngoài, làm sao để «phục hồi» chỗ đứng nhà văn của họ ?

 

-  Chúng tôi mong mỏi các anh chị trong nước quay lại sinh hoạt với chúng tôi một cách b́nh thường, như mọi người …C̣n «phục hồi» th́ nói cho cùng, thời gian sẽ gạn lọc và phục hồi tất cả những ǵ có giá trị văn học. Sự phục hồi đó mới đích thực.

 

-  Quay sang vấn đề triển vọng. Văn học hải ngoại là một bộ phận hiện có một số giới hạn : từ dăm  năm nay, số người viết và số người đọc rơi rụng dần. Lư do thứ nhất là, như anh Trần Dần hay nói, chẳng có ai chống được cái  kim đồng hồ, từng bước cái thế hệ thứ nhất đi về thiên cổ . Lư do thứ nh́, nói th́ buồn nhưng phải nói, cái thế hệ thứ hai, nghĩa là con cái bọn chúng tôi, không c̣n khả năng đọc chứ chưa nói đến viết… Hiện một đầu sách có in trung b́nh cũng chỉ từ 3 đế 5 trăm quyển, bày bán có khi 3,4 năm mới ...chưa hết th́ đem biếu bạn bè để khỏi mất chi phí tồn kho. Các tạp chí văn học cũng  vầy vậy. Vừa rồi tạp chí Chủ Đề, vốn rất nghiêm túc t́m đường làm mới văn học, phải «sập tiệm», không có người  viết, và có viết  th́ cũng chỉ đọc với nhau. Cứ thế này, chỉ độ năm ba năm nữa chắc văn học hải ngoại sẽ xơ xác như con ve sầu cuối hạ thôi…

 

-  Đương nhiên có vấn đề về triển vọng của bộ phận văn học này. Tôi không muốn và cũng không dám làm thầy bói. Nhưng theo tôi, có lẽ một việc quan trọng có thể cố gắng làm hiện nay là tạo điều kiện cho các nhà văn đang sống và viết ở nước ngoài có được độc giả trong nước trong số nay có tới 80 triệu người. Điều đó là hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của bộ phận văn học hải ngoại. Như vừa nói, đă có một số tác phẩm hải ngoại được in trong nước. Việc này diễn ra rất chậm, quá chậm. Nhưng dẫu sao cũng đă bắt đầu…

 

-  Xin anh chia xẻ điều vừa nói với nhà văn (chứ không phải là tŕnh lên ông quan) Nguyễn Khoa Điềm, chắc sẽ có một sự cảm thông nhất định. Anh nhắn hộ rằng cứ đợi «về hưu» rồi mới nói th́ «hơi bị» muộn, v́ thế th́ chỉ nói chứ chẳng làm được ǵ …

 

-  (Cười khà)…văn học gần như là cái duy nhất có khả năng vượt lên trên những định kiến chính trị, đến với mọi con người Việt Nam, dù ở đâu. Tôi quan niệm : văn học đương nhiên không thể không phản ánh chính trị của một thời đại trong đó nó tồn tại, nhưng mục tiêu của nó cao hơn chính trị. Nó v́ con người.

 

-  Anh đă từng đề cập đến sự bức thiết của một nền văn học tự vấn.  Tự vấn trong một nền văn hóa (nói chung)  và văn học (nói riêng) : Nhưng tự vấn ǵ? Có phải đặt vấn đề Ḿnh (thân phận con người, xă hội, lịch sử ) là ǵ ? là ai? thực sự có ǵ, mất ǵ, được ǵ trong cơn dâu bể  của cuộc tồn sinh? Tóm gọn, đây có phải là văn hóa trong chiều dài lịch sử của dân tộc?

 

-  Tự vấn là một nhu cầu hướng nội – không chỉ là hướng nội cá nhân mà là hướng nội dân tộc của toàn xă hội. Nh́n lại ḿnh, lịch sử của ḿnh, từ gần đến xa. Từ lịch sử văn hóa, đứng kẹp giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Aán Độ th́ ta tiếp thu ǵ, của ai, tiếp thu thế nào, vận động ra sao để Việt hóa… Rồi đến lịch sử chiến tranh- chính trị, thời đánh giặc th́ quá nhiều, thời xây dựng quá ít…

 

-  Qua trao đổi của anh với  François Julien V́ện Trưởng Viện Tư Tưởng Hiện Đại ở Đại Học Paris 7 về vấn đề «Tiêu cực là ǵ» và «Làm ǵ đây với nó»,  anh cho rằng ở Việt Nam  tiêu cực quả là vấn đề thời sự và chống lại tiêu cực hiện nay trong ḥa b́nh c̣n ác liệt và phức tạp hơn cả trong thời chiến tranh. Nếu nhà văn viết, và chỉ viết vềø những tiêu cực xă hội như Phùng gia Lộc đă đánh động một thời, có đủ không? Và nếu không, anh có thể đào sâu thêm  cái hướng «văn học tự vấn»  này là thế nào ? Trong phạm trù nào? Trên những vấn đề cấp thiết nào ? Có hay không luồng gió Tự Vấn  từ người Việt sinh sống ở Đông Âu thổi về Việt Nam  ?

 

-  Năm ngoái ở Paris tôi có nói đến chuyện xu hướng «văn học tự vấn». Trước hết, theo tôi, văn học bất cứ thời nào, và nói theo một cách nào đó, cũng là một sự tự vấn của xă hội, của con người. Thử nghĩ xem : xă hội sinh ra nhà văn là để làm ǵ? Tại sao xă hội lại ‘’lăng phí’’ một bộ phận khá lớn tài năng và trí tuệ cùa ḿnh cho một công việc trông chừng ‘’vô bổ’’ không làm ra của cải vật chất ǵ cả như vậy? Aáy chính là v́ trong khi đi tới, xă hội và con người luôn luôn có yêu cầu tự nh́n lại ḿnh.  Văn học là sự nh́n lại đó. Song nếu bây giờ ta nói đến văn học tự vấn th́ không chỉ theo cái chức năng thường trực đó mà c̣n là một sự bức thiết trong t́nh trạng hiện tại. Quả thực hiện nay cần có một sự tự vấn của toàn xă hội, toàn dân tộc hơn bao giờ hết.

    Tôi thường hay nghĩ về ‘’số phận’’ của dân tộc ta. Do những điều kiện đặc thù nào đó mà dân tộc ta có những trầm luân rất đặc biệt. Trong suốt mấy ngh́n năm, thử xem có một trăm năm nào chúng ta có được hoàn toàn yên tĩnh để xây dựng đâu. Chiến tranh triền miên. Mỗi lần vừa giành được độc lập và mới định bắt tay vào xây dựng một cái ǵ đó cho lâu dài th́ đă phải lao vào một cuộc chiến tranh mới. Chúng ta có quá ít kinh nghiệm xây dựng, nhưng có thừa thăi kinh nghiệm chiến tranh! Sau 1975, muốn xây dựng đất nước, dân tộc th́ đúng như anh nói, cần một cuộc rà soát lại toàn bộ lịch sử văn hoá, bản lĩnh, chỗ mạnh, chỗ yếu của ḿnh. Lịch sử văn hoá đó trước đây đă được diễn đạt, theo tôi, có lẽ không hoàn toàn khách quan do những nhu cầu bức thiết của chiến tranh.

    Chẳng hạn thử nghĩ chúng ta là một nước có mấy ngh́n cây số bờ biển. Vậy mà chúng ta chỉ quanh quẩn ven bờ, trong khi, như ta biết, chính những khám phá hàng hải vĩ đại của các quốc gia Aâu Châu từ thế kỷ 15,16 đă thúc đẩy sự phát triển củ họ như thế nào.   Người Việt Nam sợ biển. Đây là một điều thật lạ, và có lẽ là một trong những hạn chế rất lớn đến lịch sử phát triển của dân tộc. Chúng ta đă cố thủ măi với mảnh đất bé nhỏ, có một lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt, nhưng cũng v́ như thế, đâm có một lịch sử thậât bất hạnh. Cứ nh́n xem, qua hàng ngh́n năm nhưng chúng ta có để lại công tŕnh xây dựng vật chất nào đáng kể đâu. Và không chỉ công tŕnh vật chất. Cả những công tŕnh tinh thần kể ra cũng khá nghèo nàn.

    Nằm kẹp giữa hai nền văn hóa Hoa và Aán thật vĩ đại, một trong những kinh nghiệm văn hóa của ông cha ta là để tồn tại trong điều kiện đó và giữ được bản sắc của ḿnh th́ phải chủ trương một chính sách văn hóa mở chứ không đóng. Đóng, sẽ bị tiêu diệt. Mở ra với mọi phía, để tiếp nhận và tiêu hóa : chính khả năng đó đă làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ của ta, 60 đếùn 70% tiếp nhận từ chữ Hán, Việt hóa và đồng thời giữ phần Việt mường. Đến khi gập phương Tây, chúng ta chấp nhận Quốc ngữ, và cũng hành xử tương tự. Tiếp nhận là phương thức tồn tại chủ yếu, là chỗ mạnh đậc sắc của văn hóa Việt Nam .

    Nhưng chính trong chỗ mạnh này lại chứa đựng những cái yếu : đối với những nền văn hóa lớn, chúng ta hầu như chỉ tiếp nhận những ǵ có thể vận dụng ngay cho yêu cầu tồn tại, ‘’hớt lấy’’, học ngay, học cho nhanh những ǵ cần nhất, chưa bao giờ đi đến tận cùng những nền văn hóa đó. Với cách tiếp nhận tức th́, thực dụng và vụ lợi, chúng chưa bao giờ tạo điều kiện đủ để xây dựng được một nề nếp triết học tư tưởng riêng tư và cá thù. Nói cách khác, sự tiếp nhận của chúng ta thiếu triệt để. Phải chăng đó là một chỗ yếu quan trọng của văn hóa Việt Nam, cùa con người Việt Nam ?

    Chưa bao giờ việc tự vấn, xét lại những vấn đề như trên lại cấp thiết bằng lúc này. Để xây dựng. Vận dụng cấp thời như cha ông ta đă làm chỉ đủ để đánh giặc ngoại xâm, nhưng thật là thiếu khi giặc là giặc nội, là một phần trong ta, ư thức được hay không ư thức được. Tôi nghĩ rằng văn học chúng ta hiện nay cần và phải tham gia vào sự tự vấn toàn bộ như đă tŕnh bày. Đương nhiên, nó cũng phải tự vấn chính nó và lịch sử của nó. Rất có thể nó có khả năng xây dựng được chính nó thông qua sự tự vấn này.

 

-  Trong những điều anh vừa tŕnh bày, rơ là có những giả thiết thật lư thú. Sự tự vấn, hay nói chính xác hơn, một cuộc tra vấn toàn bộ, sẽ rất đ̣i hỏi, cần tính khoa học và đồng thời một công tŕnh tổng hợp những tri thức nhân văn sâu và rộng. Nhân đây, Talawas có nghĩa Ta là Ai? Đây là một diễn đàn đă lên đường làm cuộc tra vấn này ở mức báo chí thông tin. Lạy vua Từ Hải lạy văi Giác Duyên lạy tiên Thúy Kiều, bói măi cứ vẫn một câu ‘’ đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh’’,  nên cầu chúc anh và những người chia xẻ cách anh nghĩ, công việc anh làm,  cứ chân cứng đá mềm.        

 

-  ( Mắt sáng lên,  hóm hỉnh) Cám ơn anh. Cũng chúc anh như vậy!

 

-  Trước khi chia tay với độc giả, tí nữa tôi quên nhắc, nhà văn Nguyên Ngọc là tác giả của Đất nước đứng lên (1956), Rẻo cao (1960), Mạch nước ngầm (1961),Rừng xà nu (1965), Đất Quảng (1971), Có một con đường trên biển Đông (2000) và Cát Cháy (2002). Nhưng hiểu con người và đánh giá văn nghiệp không ai bằng Xuân Sách. Ông tai đă nhại  nhà thơ Tố Hữu bằng câu «Máu ở chiến trường, hoa ở đây» để nhắc tác phẩm ‘’Việt Nam: Máu và Hoa’’, và nhà thơ Chế Lan Viên bằng câu « Ôi  ! điêu tàn mà chẳng phải điêu tàn. Ta đă tính vàng sao từ thuở ấy » để nhớ tác phẩm Điêu Tàn. Tôi biết Xuân Sách có làm hai câu về nhà văn Nguyên Ngọc. Anh có thể cho độc giả Hợp Lưu và anh em cầm bút chia xẻ với anh không ?

 

-  Xuân Sách cho tôi những bốn câu cơ chứ không phải hai, đối với tôi anh ấy quả có ưu ái và đầy thông cảm, pha đôi chút mỉa mai. Nguyên văn như thế này :

Mấy lần Đất nước đứng lên

Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm

Hại thay một Mạch nước ngầm

    Cuốn phăng Đất Quảng lẫn Rừng Xà nu!

 

-  Cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc!

 

Ghi 3-07, Chép 31-07-2003

Nguyên Ngọc nhuận chỉnh 7-08-2003