ChimPhuNgam3

VII  Sầu muộn

 

234.Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất ḥe âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đ́nh loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ư xuân phong nhược khẳng truyền
Thiên kim tá lực kư Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên


248. Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lư
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng


255. Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
 Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung.

 

 

 

 

 

 

Đau lắm, dẫu đau  thôi chẳng nói

Hoa đèn, bóng lẻ, xót xa thương

Eo óc tiếng gà năm canh gáy

Phất phơ thời khắc chẳng kham lường

Sầu như biển

Khc tựa năm

Gượng đốt hương, hương thơm ủ hồn tan nát

Gượng soi gương, gương sầu nước mắt tuôn rơi

Gượng ôm đàn, ngón đặt run run phím Phượng

Gượng gảy dây, khúc đau nghẹn tiếng Uyên  Ương

Gió xuân nếu chịu đưa tin lại

Ngh́n vàng xin trả cơi Yên Nhiên

Núi Yên nào dễ đến

Bóng chàng thăm thẳm dốc chênh vênh

 

Trời xa không thể với

Nhớ ôi da diết, nhớ vô cùng

Nhớ ai nhớ đến nát ḷng

Lá xanh hạt sương đậu

Rỉ ran giọt mưa phùn

Sương buông đẽo tàn gốc liễu

Mưa rơi xẻ bấy ngô đồng

 

Chim cành Thung đáp

Móc vướng bụi cây

Dế kêu tường vắng

Chuông chùa vẳng xa

Rải rác mưa nặng hạt

Tầu lá chuối gió lay

Vạch cửa gió vào xuyên khe trướng

Trăng giọi rèm hoa, bóng ngất ngây

Trước hoa, trăng tỏa lung linh trắng

Dưới trăng, hoa nở sắc hồng say

Trăng hoa, trăng hoa hề bóng chập chùng

Hoa trước trăng kề  hề  dạ  nào đây

 

 

 

 

 

 

 

 

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
Ngh́n vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

 

 

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha ḷng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ ṃn gốc liễu,
Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

 

 

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giăi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong ḷng xiết đau.

 

 


 

VIII  Thất vọng

 

267.Thiên ban lăn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lănh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn

278.Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
Băo ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
Quyên thanh đề lạc quan t́nh lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
Bất thăng tiều tụy h́nh hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan

 

 

 

 

 

 

 

Nhác ngh́n chuyện, biếng trăm điều

Nữ công ư, thoi gấm thẹn dệt oanh thành cặp

Thêu vá ư, kim vàng thẹn thêu bướm thành đôi

Dung nhan ngủ dậy trơ son phấn

Ban mai song tựa cắn gh́ môi

Tựa song, tựa song, tựa song cài

Chàng chưa về, làm dáng vơí ai

Ḷng tan dạ nát ai làm dáng

cho người xa cách vạn trùng san

Lẻ loi Chức nữ sông Ngân khóc

Lạnh lẽo Hng nga  chốn Quảng-hàn

 

Nặng sầu à, ôm gối

Năo ḷng ư, kéo chăn

Định mang rượu giải sầu, sầu nặng rượu ơi khôn giải

Toan đem hoa gạt muộn, muộn khiến hoa bạc mầu

Muộn sầu góp lại thêm sầu muộn

Bời bời hóa thác chín gềnh trôi

Ôm đàn tay gẩy, đàn im tiếng

Sáo nâng miệng thổi, sáo im hơi

Nơi cuối ải quan chàng nản bước

Đường c̣n xa lắc  dạ đầy vơi

Vẳng tiếng quyên kêu, t́nh nhỏ lệ

Vang hồi canh giục, mỏi gan sôi

H́nh hài rũ xuống thân tiều tụy

Ly biệt ơi, cay đắng  kiếp người.

 

 

 

 

 

 

Đâu xiết kể, muôn sầu ngh́n năo,
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, ḍi dơi nương song.
Nương song luống ngẩn ngơ ḷng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm, ḷng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cơi Giang Lăng.
Khác ǵ ả Chức, chị Hằng,

Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc ṃng.

Sầu ôm nặng, hăy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy, hăy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.

Gơ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua, như rứt buồng gan.
Vơ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này .

 

 


 

IX  Vọng tầm

 

292.Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Kư đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
 Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân


310. Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân


Vọng quân hà sở kiến
Giang châu măn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật b́nh sa lộ nhất quần

Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đ́nh
Vân gian Ngô thọ ám
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh


Vọng quân hà sở kiến
Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dă trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai


330. Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
Hành nhân vi một cách thương châu


Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhăn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu.

 

 

 

 

 

 

Chua cay ơi hỡi, ới chua cay

chua cay này hỏi bởi v́ ai

V́ chàng, thiếp nhỏ đôi ḍng lệ

V́ chàng, thiếp chịu nỗi cô thân

Thân thiếp không ra ngoài trận mạc

Nước mắt rơi, ai người  đưa khăn

Nhưng chỉ hồn này đâu cũng đến

t́m chàng đêm xuống bến Giang-tân

T́m chàng, hề,   đường Dương

Gặp chàng,  hề,  bến Tương

Đ̣i phen tưởng đến vui hội ngộ

bên nhau ôm gối giấc xuân vương

Nhưng giận thân ḿnh không như mộng

bến Lũng, của Hàm đến với chàng

Rồi ngại giật ḿnh, cơn mộng vỡ

Mộng dầu chẳng thực, mộng không tan

V́ tấc ḷng đây đâu đành dứt

dẫu chỉ một giây cách biệt chàng

 

Ḷng chẳng ĺa chàng, chàng có biết?

Mắt trông ṃn mỏi đợi xe quân

 

Ngóng chàng, nhưng chỉ thấy

Ven sông, trắng hoa tần

Cỏ nước Yên xanh ngắt

Dâu Tần bíếc mây vân

Phía Nam, làng xóm lửa điêu tàn

Cát phẳng chiều tà c̣ trắng đậu

 

Ngóng chàng, nhưng chỉ thấy

Đường quan, trạm ngắn dài

Cây nước Ngô, xen mây

Núi Thục xanh, tṛi khuất

Phía Bắc, lúa mọc nửa thành hoang

Văng vẳng mưa sông đưa tiếng sáo

 

Ngóng chàng nhưng chỉ thấy

Núi Không, lá rụng đầy

Cỏ xanh, chim trĩ đậu

Cành mai vờn bên sông

Phương Đông, ảm đạm mù sương khói

Chim kêu thảm thiết gọi Tây-phong

 

Ngóng chàng nhưng chỉ thấy

Sông Hoàng cong lưỡi câu

Trời điểm dăm cánh nhạn

Ngoài khơi, thoáng cánh  buồm 

Phương Tây, rừng thông chèn lau lách

Xanh mờ khuất nẻo bóng người xa

 

Ngắm hết đầu trời trông cuối đất

Sáng leo gác thấp, chiều lầu cao

Mây che cách trở tương tư ngóng

Chiến địa Ngọc-quan ở chốn nào?

 

 

 

 

 

 

Nếm chua cay tấm ḷng mới tỏ,
Chua cay này, há có v́ ai.

V́ chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
V́ chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy c̣n hồn mộng được gần,

Đêm đêm thường đến Giang Tân t́m người.
T́m chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa .
Sum vầy mấy lúc t́nh cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
T́nh trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!

 

Duy có một tấm ḷng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Ḷng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến Nam, băi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn c̣ đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường Bắc, đôi cḥm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non Đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.


 

 

Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc cḥm lau,
Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về .
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
Lên xuống lầu thấm thoát đ̣i phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nh́n,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan.